Câu chuyện tòa án
Ra tòa đòi nợ người tình của chồng và cái kết đắng
Phiên tòa có mặt duy nhất đương sự với Hội đồng xét xử. Điều đáng chú ý là đương sự này ra tòa để đòi lại khoản tiền nghi chồng mình cho một người phụ nữ khác…
Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi vừa mở phiên tòa xét xử một vụ kiện khá hy hữu. Bà T.T.T.A khởi kiện ra tòa đòi bà P.T.H.B trả lại số tiền 113 triệu đồng được cho là chồng mình đã cho bà B. và 63 triệu đồng cho bà B. mượn để mua xe.
Động cơ và bằng chứng duy nhất để bà A. kéo nhau ra tòa là bà tình cờ phát hiện trong nhà có một tờ giấy cam kết (viết tay) với nội dung: “Hôm nay, ngày… tháng… năm 2016. Tôi tên P.T.H.B hứa với chồng là P.H.D sẽ yêu và chung thủy, suốt đời này không bao giờ phản bội. Nếu không giữ đúng lời hứa sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm và sẽ bị ông trời trừng phạt. Tôi hứa không nghe điện thoại, không đi ăn nhậu với người đàn ông khác, nếu sai lời sẽ chịu mọi điều trừng phạt của chồng. Nếu tôi không thực hiện đúng lời mình hứa thì sẽ hoàn trả lại số tiền mà P.H.D đã sắm tư trang cho tôi với số tiền 50 triệu đồng”.
Tại tòa, bà A. cho rằng, do bà B. quan hệ không hợp pháp với chồng mình nên yêu cầu bà B. trả lại toàn bộ số tiền nêu trên.
Tuy nhiên, cả hai người có liên quan là ông D. và bà B. đều có lời khai trước đó gửi cho tòa án, rằng không có ai cho và nhận số tiền mà bà A. yêu cầu trả lại. Bà B. nói rằng, trong thời gian quen biết, ông D. có nói sẽ cho bà số tiền 50 triệu đồng để mua sắm tư trang với điều kiện bà phải viết giấy cam kết hứa sẽ yêu thương, chung thủy với ông. Đây chỉ là lời nói đùa với nhau. Bà B. có viết giấy cam kết, nhưng ông D. không thực hiện lời hứa, chẳng những không đưa tiền cho bà mà còn cố ý sửa giấy cam kết từ 50 triệu đồng thành 500 triệu đồng. Trên thực tế, ông D. cũng không đưa khoản tiền nào cho bà B. mua xe. Ông D. cũng thừa nhận rằng, trước đây, ông và bà B. có quan hệ tình cảm với nhau, bà B. có viết giấy cam kết nhưng mục đích chỉ là viết chơi, chứ thật sự không ai đưa tiền cho ai cả.
Không còn chứng cứ nào khác, bà A. chỉ biết ngậm ngùi nghe Hội đồng xét xử phân tích: Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ để các đương sự chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình phải là bản chính, hoặc bản sao có công chứng, chứng thực. Còn vật chứng dùng làm chứng cứ thì phải là hiện vật gốc. Đối chiếu với giấy cam kết đã bị ông D. tẩy xóa, thêm nội dung vào là không đúng với hiện trạng gốc nên không có giá trị chứng cứ. Mặt khác, giấy cam kết không thể hiện được nội dung cụ thể của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự, mà đây chỉ là nội dung tự bà B. viết ra. Trong khi đó, bà B. lại không thừa nhận có mượn hay được ông D. tặng cho bất cứ khoản tiền nào. Do đó, bà A. không có cơ sở để đòi bà B. trả lại cho mình 113 triệu đồng.
Không chỉ trắng tay ra về, bà A. còn phải chi trả 5,6 triệu đồng án phí dân sự sơ thẩm.
H.D