Lấy ý kiến nhân dân đóng góp Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015 - 2020)

Thứ Sáu, 16/10/2015 | 13:14

LTS: Nhằm động viên, tập hợp trí tuệ, phát huy tinh thần dân chủ, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân đóng góp xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015 - 2020). Tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động trong việc học tập, quán triệt, triển khai Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống. Để việc đóng góp thuận lợi, đạt kết quả, bắt đầu từ số báo này, báo Bạc Liêu lần lượt đăng toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV trình đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.

XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN; HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ  BỀN  VỮNG;  ĐƯA  BẠC  LIÊU TRỞ THÀNH TỈNH PHÁT TRIỂN KHÁ CỦA KHU VỰC

 (Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIV tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV)

PHẦN THỨ NHẤT

KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIV, NHIỆM KỲ 2010 - 2015

Năm năm qua, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn và khủng hoảng chính trị tại nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới; diễn biến phức tạp trên biển Đông cùng với những khó khăn, thách thức của kinh tế đất nước và những thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu đã tác động, ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các mục tiêu, nhiệm vụ nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra.

Nhưng, với quyết tâm chính trị và tinh thần trách nhiệm cao, sự năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành (BCH), Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy; sự điều hành và tổ chức thực hiện quyết liệt của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh; sự nỗ lực trong phối hợp thực hiện của các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể chính trị - xã hội, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, các nhiệm vụ, mục tiêu do Nghị quyết Đại hội đề ra được thực hiện đạt những kết quả quan trọng.

A- KẾT QUẢ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH  LẦN THỨ XIV (2010 - 2015)

I- PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG - AN NINH

1- Về kinh tế

1.1- Kinh tế có sự phát triển và chuyển dịch theo hướng tích cực

Trong tổng số 21 chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV đề ra, ước thực hiện có 13 chỉ tiêu vượt và đạt(1), 8 chỉ tiêu gần đạt(2).

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2015 (giá so sánh năm 1994)(3) đạt 15.017 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2014; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 12,1%, (chỉ tiêu đề ra là 13,5%). GRDP bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 43,67 triệu đồng (tương đương 2.031USD); thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2,233 triệu đồng/ tháng (trong đó, khu vực thành thị 2,547 triệu đồng; nông thôn 2,088 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; trong đó: nông - lâm - thủy sản đạt 47,46% (chỉ tiêu đề ra 36,40%), công nghiệp - xây dựng đạt 25,44% (chỉ tiêu đề ra 31,7%), thương mại dịch vụ đạt 27,1% (chỉ tiêu đề ra 31,9%).

Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 9.208 tỷ đồng năm 2010 lên 13.869,9 tỷ đồng năm 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 8,53%/năm (chỉ tiêu đề ra là 5,97%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 5.988,37 tỷ đồng năm 2010, ước đạt lên 11.907,26 tỷ đồng năm 2015, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 14,73%/năm (chỉ tiêu nghị quyết là 19,26%/năm); khu vực dịch vụ tăng từ 4.562,61 tỷ đồng năm 2010 lên 8.992,49 tỷ đồng năm 2015, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 14,53%/năm (chỉ tiêu 18,13%/năm).

Tổng mức lưu chuyển hàng hóa dịch vụ tăng từ 14.363 tỷ đồng năm 2010 lên 42.000 tỷ đồng năm 2015, tốc độ tăng trưởng bình quân 23,94%/năm (chỉ tiêu 24,51%). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tăng nhanh, từ 4.733 tỷ đồng năm 2010 lên 10.810 tỷ đồng năm 2015, tăng bình quân 17,96%/năm (chỉ tiêu 23,14%), chiếm tỷ lệ 27,85% giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 219 triệu USD năm 2010 lên 447,5 triệu USD năm 2015 (chỉ tiêu 380 triệu USD), tăng bình quân 15,4%/năm(4).

1.2- Các chương trình, nhiệm vụ trọng tâm được triển khai thực hiện quyết liệt và thu được kết quả rất quan trọng

a- Các dự án trọng điểm được triển khai theo đúng quy hoạch, một số dự án hoàn thành và đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả khá tốt

Dự án Điện gió đã hoàn thành đưa vào vận hành 30 trụ turbine, chính thức hòa vào lưới điện quốc gia với công suất 48 MW, đang tiếp tục xây dựng các trụ turbine còn lại, phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án vào cuối quý II/2016, với tổng số 62 turbine, tổng công suất 99,2 MW, dự kiến sẽ hòa vào điện lưới quốc gia khoảng 80 triệu Kwh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Nhà máy Bia Sài Gòn - Bạc Liêu được mở rộng sản xuất, nâng công suất thiết kế từ 30 triệu lít/năm lên 50 triệu lít/năm, đóng góp cho ngân sách tỉnh năm sau cao hơn năm trước, đạt gần 300 tỷ đồng năm 2015. Nhà máy chế biến gạo xuất khẩu tại huyện Hồng Dân, với công suất 200.000 tấn/năm gắn với mô hình cánh đồng mẫu lớn và bao tiêu sản phẩm đã đi vào hoạt động ổn định giai đoạn 1, với công suất 100 ngàn tấn/năm, bước đầu mang lại hiệu quả tốt cho cả người sản xuất và doanh nghiệp. Nhà máy Da giày xuất khẩu An Hưng, Nhà máy Bao bì xuất khẩu của Tập đoàn Dầu khí đi vào hoạt động ổn định; dự án nhà máy may mặc xuất khẩu của Công ty TNHH một thành viên Pinetree Hàn Quốc đã xây dựng hoàn thành, đi vào hoạt động, từng bước ổn định và mở rộng quy mô công suất; Công ty May mặc Vinatex đang được đầu tư xây dựng, khi đi vào hoạt động sẽ giải quyết việc làm cho gần 5.000 lao động, đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách, tăng trưởng kinh tế và tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Các dự án về phát triển du lịch được triển khai thực hiện tích cực. Nhiều dự án đã hoàn thành và đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả khá tốt, như: Đền thờ Bác Hồ ở xã Châu Thới, Khu di tích lịch sử Đồng Nọc Nạng, Khu di tích căn cứ Tỉnh ủy Cái Chanh, Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Khu nhà Công tử Bạc Liêu, Khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam, Khu vui chơi giải trí công viên Trần Huỳnh, Cụm danh thắng Quảng trường Hùng Vương, Khu Quán âm Phật đài, Nhà máy Điện gió Bạc Liêu... đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khá đông du khách tham quan; hệ thống trung tâm thương mại của thành phố Bạc Liêu và các huyện, thị xã được đẩy mạnh đầu tư, trở thành điểm đến, mua sắm thuận lợi cho nhân dân trong tỉnh và du khách.

Các cơ sở du lịch khác như: Nhà thờ Tắc Sậy, Chùa Xiêm Cán, Lăng Cá Ông, Vườn chim Bạc Liêu, Khu du lịch sinh thái Vườn nhãn, Cây xoài di sản 300 năm, Tháp cổ Vĩnh Hưng... cũng đã và đang được khai thác khá hiệu quả, góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch của tỉnh. Hệ thống nhà hàng, khách sạn được xây dựng, nâng cấp, từng bước đáp ứng nhu cầu của du khách.

Những nỗ lực nêu trên cùng với hoạt động quảng bá, giới thiệu về hình ảnh quê hương, đất và người Bạc Liêu đã thu hút ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước đến Bạc Liêu tham quan, du lịch; lượng khách đến Bạc Liêu ngày càng tăng, bình quân hơn 20%/năm; riêng năm 2015, ước có khoảng 1,1 triệu lượt khách, trong đó có 35 ngàn lượt khách quốc tế. Tỉnh đã được Hiệp hội Du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long công nhận là 1 trong 5 địa phương trọng điểm về du lịch của vùng; đặc biệt, tỉnh có 6 sản phẩm du lịch được công nhận là điểm du lịch tiêu biểu của Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm gần 1/3 sản phẩm du lịch của vùng, góp phần tăng nguồn thu ngân sách và tỷ trọng dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Bên cạnh đó, một số dự án trọng điểm được nghị quyết xác định đã được đưa vào quy hoạch quốc gia, đã và đang triển khai thực hiện các bước liên quan, như: Cảng biển Gành Hào; Cụm kinh tế Gành Hào; hệ thống kè chống sạt lở cửa biển Gành Hào đã và đang được xây dựng; các khu neo đậu tránh trú bão Cái Cùng, Nhà Mát; riêng Cảng cá Gành Hào đã hoàn thành giai đoạn I và đưa vào hoạt động, với sản lượng qua cảng 54.000 tấn/năm, hiện đang thiết kế mở rộng quy mô diện tích cảng lên 6,75ha. Mở rộng và nâng cao công nghệ các nhà máy chế biến thủy sản, đồng thời phát triển thêm nhiều nhà máy mới, nâng tổng số lên 33 cơ sở, nhà máy chế biến, với công suất 100 ngàn tấn/năm.

Ngoài việc triển khai thực hiện các dự án nêu trên, tỉnh cũng rất quan tâm chỉ đạo phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống của tỉnh; chủ động mời gọi đầu tư các dự án có sử dụng nhiều lao động để tạo công ăn việc làm cho người lao động; quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ chế biến thủy sản(5).

b- Sản xuất nông nghiệp, thủy sản, phát triển kinh tế biển có nhiều tiến bộ, hình thành một số mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao và mở ra triển vọng phát triển mới cho lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản của tỉnh.

Đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết số 04/NQ-TU về “Phát triển kinh tế biển và vùng phía Nam Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu đến năm 2015 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết số 05/NQ/TU về “Phát triển vùng phía Bắc Quốc lộ 1A tỉnh Bạc Liêu đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020” nhằm khai thác lợi thế, tiềm năng của từng vùng trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế biển theo tinh thần các nghị quyết của Trung ương về kinh tế biển và về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện Quyết định 899/QĐ-TTg, ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” và các đề án, kế hoạch hành động thực hiện tái cơ cấu ngành, lĩnh vực của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tỉnh cũng đã triển khai thực hiện Kế hoạch tái cơ cấu ngành Nông nghiệp tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020.

Sản xuất nông nghiệp ổn định có bước phát triển mới. Đã đầu tư thực hiện có hiệu quả việc kết nối sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm đối với các sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới như: Tôm sú, tôm thẻ, cua biển, nhuyễn thể, lúa gạo và đang từng bước thực hiện chuyển dịch từ phát triển theo chiều rộng lấy số lượng làm mục tiêu phấn đấu sang nâng cao chất lượng, sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ cao, sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, có năng suất và giá trị gia tăng cao.

- Việc xây dựng kết cấu hạ tầng 15.000ha nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp đã được quan tâm chỉ đạo, thực hiện đạt kết quả quan trọng(6). Hình thành một số mô hình nuôi tôm sinh thái kết hợp với trồng rừng và bảo vệ rừng ven biển(7). Công tác trồng và bảo vệ rừng được quan tâm hơn; dự án di dân rừng phòng hộ ven biển về định cư tại các khu dân cư tập trung theo quy hoạch được thực hiện tích cực, trong đó có việc tạo điều kiện cho người trong độ tuổi lao động có việc làm, trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường. Ngoài ra, đã triển khai trồng trên 2.000ha rừng tập trung và cây phân tán; đồng thời, đang tiếp tục chỉ đạo thực hiện việc trồng và quản lý, bảo vệ rừng kết hợp với nuôi tôm sinh thái khu vực phía trong chân đê (với diện tích hơn 3.100ha). Bên cạnh đó, khai thác thủy sản phát triển khá, số lượng phương tiện tàu cá tăng nhanh; máy móc, thiết bị tàu đánh bắt xa bờ luôn được quan tâm, đầu tư nâng cấp(8).

- Việc xây dựng cánh đồng lúa chất lượng cao và vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có chuyển biến tích cực. Toàn tỉnh hiện có hàng chục ngàn héc-ta lúa được sản xuất lúa theo hướng VietGAP và hợp tác liên kết sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp. Đặc biệt, đã xây dựng được những cánh đồng lúa lớn, chất lượng cao theo mô hình gắn sản xuất với bao tiêu sản phẩm, chế biến gạo xuất khẩu tại các huyện trong tỉnh(9), mô hình này đã mở ra hướng sản xuất mang tính bền vững và đem lại hiệu quả cao cho người trồng lúa. Hiện nay, hơn 90% diện tích lúa trên địa bàn tỉnh được trồng bằng các giống lúa có chất lượng cao và giống lúa đặc sản địa phương (Tài nguyên, Một bụi đỏ), doanh thu bình quân của người sản xuất đạt 100 triệu đồng/ha/năm (3 vụ).

Nghiên cứu và chuyển giao thành công một số quy trình sản xuất(10). Xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm chủ lực của tỉnh(11). Xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm Thực nghiệm và chuyển giao khoa học, công nghệ ở huyện Hồng Dân, Phước Long và thị xã Giá Rai; đang xúc tiến thành lập Trung tâm Thực nghiệm và chuyển giao khoa học, công nghệ huyện Vĩnh Lợi và thành phố Bạc Liêu. Ngoài ra, tỉnh cũng đang triển khai thực hiện Dự án đầu tư xây dựng phòng kiểm nghiệm môi trường và xét nghiệm bệnh thú y và dự án đầu tư nâng cấp phòng xét nghiệm bệnh thuỷ sản.

Hình thành một số mô hình sản xuất mới trong sản xuất tôm, đem lại hiệu quả cao, như: Nuôi tôm thẻ siêu thâm canh, nuôi tôm trong nhà kín cho năng suất gấp 20 lần nuôi công nghiệp bình thường; tôm sinh thái đạt chuẩn GlobalGAP(12); mô hình nuôi thâm canh tôm sú, tôm thẻ bền vững theo hướng VietGAP, nuôi cua lột xuất khẩu; mô hình sản xuất tổng hợp như: tôm sú - lúa, tôm sú - lúa + tôm càng xanh, tăng lợi nhuận thêm từ 5 - 20 triệu đồng/ha so với sản xuất chuyên lúa. Đặc biệt, đã quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, với đối tượng ứng dụng là lúa đặc sản, lúa chất lượng cao, các loại cua biển, tôm sú, tôm thẻ, cá chình xuất khẩu(13). Đẩy mạnh ứng dụng các quy trình kỹ thuật và mô hình quản lý dinh dưỡng, quản lý rầy nâu, tiết kiệm nước tưới(14) nhờ đó năng suất, sản lượng và thu nhập của người sản xuất đều tăng. Tập đoàn Việt Úc đã ứng dụng thành công khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất tôm giống, là đơn vị duy nhất tại thời điểm này ở Việt Nam được phép sản xuất tôm giống bố mẹ. Công ty đã sản xuất và cung ứng tôm giống đạt chất lượng và chiếm 22% thị phần cả nước, trong đó tại Bạc Liêu đã chiếm hơn 55% thị phần; góp phần quan trọng đưa lĩnh vực sản xuất tôm giống thành thế mạnh của tỉnh.

Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp, thủy sản của tỉnh đã có nhiều tiến bộ, xuất hiện nhiều mô hình sản xuất mới có hiệu quả bền vững, góp phần nâng cao năng suất và khả năng chống chịu với thiên tai, dịch bệnh; chất lượng và năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm nông, thủy sản hàng hóa chủ lực từng bước được cải thiện, tạo ra nhiều cánh đồng đạt doanh thu từ 100 triệu đồng/ha trở lên (hiện có hơn 18.000 ha); sản xuất lúa tăng nhanh trên cả 3 mặt (diện tích, năng suất, sản lượng), sản lượng lúa tăng từ 809.512 tấn năm 2010 lên trên 1 triệu tấn năm 2015, tăng 27,85% so năm 2010 và tăng 27,25% so với mục tiêu đến năm 2015 (tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 5,03%). Nuôi trồng, khai thác thủy sản ngày càng phát triển đa dạng, với nhiều mô hình mới theo hướng coi trọng chất lượng, bền vững, hiệu quả; sản lượng thủy sản tăng từ 241.044 tấn năm 2010 lên 290.000 tấn năm 2015, tăng 20,31% so năm 2010 và tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 3,76%/năm

1.3- Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư khá đồng bộ theo hướng ưu tiên các công trình trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực phục vụ của các công trình thiết yếu không ngừng được nâng lên, làm thay đổi bộ mặt đô thị và nông thôn, từng bước rút ngắn chênh lệch về đời sống vật chất và tinh thần giữa nông thôn và thành thị.

Trong 5 năm qua, tỉnh đã đầu tư hơn 12.118 tỷ đồng cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội(15), trong đó có hơn 3.103 tỷ đồng cho kết cấu hạ tầng giao thông. Các công trình giao thông trọng yếu, nhất là những tuyến đường ngang được đưa vào quy hoạch, tập trung chỉ đạo và cơ bản hoàn thành(16). Các tuyến đường giao thông về trung tâm xã, giao thông nông thôn về các ấp được thực hiện đạt kết quả khá tốt; các địa phương đang tiến hành nâng cấp, mở rộng các tuyến đường giao thông nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới(17).

Hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu và giao thông đường thủy được quan tâm đầu tư, từng bước đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông, lâm, diêm, ngư nghiệp và đời sống dân sinh trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh đã đầu tư xây dựng 5.072 km kênh thủy lợi và thủy nông nội đồng; đến nay, đã hoàn thành hệ thống kênh trục, kênh cấp I và kênh cấp II đối với tiểu vùng giữ ngọt ổn định và tiểu vùng chuyển đổi sản xuất phía Bắc Quốc lộ 1A; riêng đối với vùng Nam Quốc lộ 1A còn hạn chế. Đối với các công trình thủy nông nội đồng chỉ đáp ứng khoảng 80 - 85% theo quy hoạch (đối với tiểu vùng giữ ngọt ổn định), khoảng 75 - 80% (đối với tiểu vùng chuyển đổi sản xuất) và khoảng 70 - 75% (đối với vùng Nam Quốc lộ 1A). Các dự án phòng chống thiên tai, ứng phó với biển đổi khí hậu được đầu tư xây dựng(18); hệ thống ô đê bao khép kín gắn với xây dựng đê, trạm bơm điện được đầu tư, đáp ứng khá tốt nhu cầu tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp(19).

Hệ thống điện được quan tâm đầu tư, bảo đảm phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống của nhân dân; đến nay tỷ lệ hộ dùng điện trong tỉnh đã đạt 97,5% (ước đến cuối năm 2015 đạt 98%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra); hiện còn 963 đoạn tuyến điện ở nông thôn chưa được khép kín, đang tiếp tục chuẩn bị đầu tư cho giai đoạn tiếp theo.

Mạng lưới trường, lớp được đầu tư xây dựng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của học sinh trẻ em(20). Hệ thống các bệnh viện trong tỉnh được đầu tư xây dựng và nâng cấp; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế trong các bệnh viện, cơ sở y tế đã và đang được đầu tư, trang bị, từng bước đáp ứng được nhu cầu khám, điều trị bệnh của nhân dân. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương xã hội hóa, một số nhà đầu tư cũng đang triển khai xây dựng các bệnh viện chuyên khoa như: Bệnh viện Y học cổ truyền, Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn - Bạc Liêu, Bệnh viện Thanh Vũ Medic 2.

1.4- Việc xây dựng thành phố Bạc Liêu trở thành đô thị loại II; xây dựng huyện Giá Rai trở thành thị xã; xây dựng huyện Phước Long trở thành huyện  nông thôn mới theo lộ trình đạt kết quả quan trọng

a- Thành phố Bạc Liêu đã trở thành đô thị loại II trước 1 năm so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra, đang tiếp tục được quan tâm đầu tư trở thành thành phố xanh, sạch, đẹp và văn minh, từng bước hiện đại

Nghị quyết số 01 của Tỉnh ủy về xây dựng thành phố Bạc Liêu trở thành đô thị loại II - thành phố xanh, sạch, đẹp và văn minh; Nghị quyết số 02 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch được quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Việc phát triển kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, mở rộng không gian đô thị thành phố được quan tâm chỉ đạo quyết liệt, nhiều công trình giao thông(21) và công trình kinh tế, văn hóa quan trọng được đầu tư xây dựng, đã hoàn thành đưa vào sử dụng(22) phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống nhân dân.

Việc xây dựng các khu dân cư, khu đô thị mới, xây dựng nhà ở xã hội được triển khai và có nhiều chuyển biến (khu nhà ở Thiên Long, Hoàng Phát, Tràng An, 577); việc nâng cấp các đường hẻm và chỉnh trang khu dân cư bên trong các trục đường chính của thành phố cũng đạt nhiều kết quả quan trọng.

Công tác kiến trúc đô thị và quản lý kiến trúc xây dựng, quản lý đô thị được thực hiện khá tốt; các dịch vụ đô thị được quan tâm đầu tư và tiến bộ rõ nét. Hệ thống điện chiếu sáng công cộng, biển hiệu tuyên truyền, quảng cáo trên các tuyến đường chính và các khu dân cư được xây dựng, nâng cấp, sắp xếp lại, từng bước đi vào nền nếp và mang tính chuyên nghiệp hơn. Việc trồng cây xanh, vỉa hè xanh, sắp xếp trật tự vệ sinh đường phố, sắp xếp và di dời chợ tạm trên địa bàn thành phố, xây dựng Chợ Bạc Liêu A được tiến hành đồng bộ(23). Công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và vệ sinh môi trường khu vực công cộng và các khu dân cư đã có tiến bộ hơn. Những kết quả đạt được nêu trên đã tạo nên sinh khí mới trong nhân dân và làm cho bộ mặt đô thị thành phố Bạc Liêu thay đổi sâu sắc.

b- Việc xây dựng huyện Giá Rai thành thị xã đạt kết quả tích cực

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, BCH Đảng bộ tỉnh đã có Nghị quyết về xây dựng huyện Giá Rai trở thành thị xã vào năm 2015. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ với huyện Giá Rai tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ có liên quan. Trong đó hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn huyện đã được quan tâm đầu tư đạt kết quả bước đầu, một số công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng(24).

Bên cạnh đó, huyện Giá Rai cũng chủ động và tích cực triển khai xây dựng mới hệ thống chợ nông thôn; nâng cấp chợ Hộ Phòng, chợ Giá Rai; phát triển hệ thống lưới điện; thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu dân cư đã triển khai; nâng cấp, chỉnh trang hệ thống cấp nước, thoát nước, giao thông, vỉa hè, công viên cây xanh, hệ thống chiếu sáng; tổ chức lại các công trình vệ sinh công cộng, công tác xử lý rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường.

Từ kết quả nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết thành lập thị xã Giá Rai và 3 phường trực thuộc thị xã Giá Rai, hoàn thành mục tiêu Đại hội XIV đề ra.

c- Việc xây dựng nông thôn mới được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đạt kết quả bước đầu quan trọng

Các cấp, các ngành đã có nhiều sáng tạo trong tổ chức thực hiện; nhiều địa phương đã chủ động đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường vận động, tạo sự đồng thuận cao của nhân dân trong đóng góp thực hiện những tiêu chí không cần nhiều vốn ngân sách, như: Xây dựng đời sống văn hóa, trồng cây xanh, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, xây dựng mô hình sản xuất, chăn nuôi, đưa các giống cây, con mới vào sản xuất để tăng năng suất, thu nhập; vận động doanh nghiệp xây dựng chợ, nhân dân đóng góp để xây dựng nghĩa trang, hiến đất làm đường, nhà văn hóa. Để tránh đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, tỉnh đã chỉ đạo ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực, tiêu chí quan trọng, thiết yếu và tập trung cho các xã điểm, huyện điểm để từ đó nhân ra diện rộng; đến nay đã cơ bản hoàn thành chỉ tiêu  Đại hội XIV đề ra, trong đó huyện Phước Long đang đề nghị Trung ương công nhận là huyện đạt chuẩn nông thôn mới(25).

1.5- Các thành phần kinh tế được quan tâm, tạo điều kiện phát huy khá tốt tiềm năng, góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh

Các cấp, các ngành đã quan tâm chỉ đạo, tạo môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển và khai thác, phát huy hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mặc dù trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhưng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn cơ bản ổn định và phát triển. Kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng khá. Trong 5 năm qua đã có 976 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 6.235 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến nay là 1.722 doanh nghiệp(26). Kinh tế hợp tác và hợp tác xã (HTX) được quan tâm chỉ đạo, nhiều HTX, tổ hợp tác được thành lập mới, hoạt động đa dạng về ngành, nghề, lĩnh vực; các loại hình HTX, tổ hợp tác kiểu cũ dần được chuyển đổi hoạt động theo quy định của Luật HTX. Các HTX bước đầu có tích lũy và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, lợi ích của các xã viên; góp phần vào phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 110 HTX và 800 tổ hợp tác (doanh thu bình quân của HTX là 3.366 triệu đồng/năm), số lượng HTX trong những năm qua tuy không tăng (do vừa phát triển mới, vừa giải thể), nhưng phần lớn đều hoạt động có hiệu quả, trên các lĩnh vực đều có hợp tác xã tiên tiến, trong đó có các mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá cao, điển hình: Công ty chế biến lương thực Vĩnh Lộc liên kết với nông dân; HTX Artemia Vĩnh Châu; HTX Thanh Sơn, HTX Nam Hưng (sản xuất mua bán lúa giống, dịch vụ sau thu hoạch); HTX dịch vụ và Nuôi trồng thủy sản Thuận Phát.

Công tác quản lý tài chính từng bước đi vào nền nếp; thu trong cân đối ngân sách tăng từ 774 tỷ đồng năm 2010 lên 1.302 tỷ đồng năm 2015, tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 10,95%; chi ngân sách địa phương 3.587 tỷ đồng, đạt 100% dự toán, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi thường xuyên, chi thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã hội và các nhiệm vụ chi cấp thiết của tỉnh. Hệ thống các ngân hàng thương mại phát triển khá nhanh; đến nay đã có 157 chi nhánh ngân hàng, phòng giao dịch và điểm giao dịch, tăng 18 đơn vị so với đầu nhiệm kỳ(27).

1.6- Công tác đối ngoại, thu hút ngoại lực và cải thiện môi trường đầu tư được quán triệt và thực hiện, đạt kết quả khá tốt

a- Công tác đối ngoại và thu hút ngoại lực được tăng cường, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của tỉnh

Đã chủ động thúc đẩy quan hệ kết nghĩa với tỉnh Preah Sihanouk - Campuchia; tạo mối quan hệ khá tốt với Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh; thúc đẩy quan hệ hợp tác với tỉnh Nagasaky của Nhật Bản; mở rộng hợp tác làm ăn với một số đối tác Hàn Quốc. Tổ chức tiếp đón chu đáo các đoàn khách: Đại sứ và tổng lãnh sự của nhiều nước; Tổng Giám mục đại diện không thường trú của Tòa Thánh Vatican đến thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh... qua đó, góp phần thực hiện tốt công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Đồng thời, đã đăng cai tổ chức thành công nhiều giải thể thao quốc tế, tổ chức giao lưu văn hóa, thể thao với một số nước... góp phần quan trọng vào việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Bạc Liêu và tăng cường hoạt động ngoại giao nhân dân.

Bên cạnh việc củng cố và đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ, thành phố Đà Nẵng, tạo mối quan hệ chặt chẽ với nhiều bộ, ngành Trung ương và thắt chặt quan hệ kết nghĩa, hợp tác phát triển với đảng bộ và nhân dân tỉnh Ninh Bình, BTV Tỉnh ủy đã chủ trương mở rộng quan hệ liên kết với các tập đoàn, tổ chức kinh tế và một số địa phương khác. Trong đó, một số tổ chức kinh tế, tập đoàn đã có sự hợp tác, ủng hộ rất có ý nghĩa, như: Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Dầu khí, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp, Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel), Ngân hàng Ngoại thương, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Ngân hàng Liên Việt.

Tỉnh cũng tạo mối quan hệ khá tốt với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long; đã tham gia tích cực vào các hoạt động chung của vùng Tây Nam bộ, cũng như các hoạt động riêng của từng tỉnh trong khu vực khi được mời tham dự; tích cực tham gia và có những đóng góp thiết thực đối với các địa phương trong nước khi có yêu cầu(28).

Những nỗ lực nêu trên đã góp phần nâng cao được vị thế, hình ảnh của tỉnh và nhận được sự quan tâm rất quan trọng của Trung ương, sự ủng hộ thiết thực của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực đầu tư phát triển và thực hiện chính sách an sinh xã hội(29).

b- Việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh và phát huy nguồn nội lực cũng được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đạt được kết quả rất quan trọng

BTV Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số 13 để thực hiện Nghị quyết số 09 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; ban hành Kết luận số 09 về một số chủ trương nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Bạc Liêu năm 2012 và những năm tiếp theo, trên cơ sở đó UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 11 để cụ thể hóa việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này. Đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh; cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh hấp dẫn, thông thoáng; đơn giản hóa các hồ sơ, thủ tục hành chính; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp triển khai hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Nhờ đó, chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh đã tăng lên từng năm(30). Thu hút đầu tư liên tục tăng, giai đoạn 2010 - 2015 tăng 55 lần so với giai đoạn 2006 - 2010(31).

Song song với việc thu hút ngoại lực, các nguồn lực trong tỉnh cũng được phát huy khá tốt, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Đã chú trọng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp và thủy sản theo hướng bền vững và hiệu quả. Phát triển mạnh việc trồng lúa chất lượng cao (chiếm hơn 90% diện tích trồng lúa trong toàn tỉnh); nhân rộng hình thức nuôi tôm sinh thái; nuôi tôm kết hợp trồng lúa; nuôi tôm dưới tán rừng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, tăng công suất tàu để nâng cao năng lực khai thác, đánh bắt thủy hải sản của ngư dân(32); vận động nhân dân tích cực tham gia đóng góp xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và người dân phát triển các hoạt động thương mại và dịch vụ du lịch, mở rộng các ngành nghề sản xuất, kinh doanh; tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình, dự án mang tính xã hội hóa của tỉnh. Qua đó đã góp phần quan trọng nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế, nâng cao đời sống của người dân và tạo nguồn tăng thu cho ngân sách tỉnh(33). Trong 5 năm (2011 - 2015), tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt trên 39.786 tỷ đồng, chiếm 27,85% so với GRDP, tăng gấp 2,26 lần so với giai đoạn 2006 - 2010.

1.7- Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường thường xuyên được quan tâm và chủ động thực hiện

Trong nhiệm kỳ qua, Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy đã lãnh đạo thực hiện nghiêm túc các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường bước đầu đạt được những kết quả quan trọng(34); nhận thức của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân ngày càng được nâng lên; công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường được quan tâm thực hiện có trọng tâm, trọng điểm và đã phát huy hiệu quả tích cực.

Hiện tỉnh đã và đang triển khai thực hiện 16 dự án(35) ưu tiên thuộc khung kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh, như: khôi phục và nâng cấp đê biển đông, xây dựng kè chống sạt lở cửa biển Nhà Mát; khởi công xây dựng 3 cống trụ đỡ (cống Nhà Mát, cống Chùa Phật, cống Cái Cùng) ngăn triều cường, chống ngập úng; hệ thống đê biển, kè chống xói lở... được đầu tư xây dựng đồng bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng.

Công tác quản lý tài nguyên ngày càng phát huy hiệu quả, tình hình quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã đi vào nền nếp và có nhiều chuyển biến tích cực; công tác lập, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngầm được thực hiện nghiêm túc(36); các nhiệm vụ, dự án đo đạc, điều tra cơ bản, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học… được tập trung thực hiện, nhằm phục vụ yêu cầu công tác quản lý và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Công tác bảo vệ môi trường được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện; chất lượng môi trường sống được nâng lên, môi trường cảnh quan đô thị, trung tâm dân cư từng bước được cải thiện(37); các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ được tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm; công tác thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt, y tế và công nghiệp của các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh được quản lý chặt chẽ.

2- Công tác giáo dục và đào tạo, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ được chú trọng; văn hóa - xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng; gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội

2.1- Giáo dục - đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ

Để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của tỉnh, Tỉnh ủy và BTV Tỉnh ủy thường xuyên quan tâm sâu sát, chủ động, sáng tạo và kịp thời cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong tổ chức thực hiện. Nhờ đó, chất lượng giáo dục được nâng lên, khắc phục khá tốt những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này. Cơ sở, vật chất, trường lớp được đầu tư, phát triển nhanh; số trường đạt chuẩn quốc gia tăng, vượt chỉ tiêu đại hội đề ra. Chủ trương sắp xếp lại mạng lưới trường lớp, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên (theo Đề án 826) bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực(38); hoàn thành xây dựng mới ký túc xá sinh viên với sức chứa 1.000 sinh viên.

Việc xây dựng và áp dụng các chính sách thu hút, đãi ngộ cán bộ quản lý, giáo viên mầm non về công tác tại các vùng đặc thù của tỉnh được thực hiện tốt, đặc biệt là đã cơ bản khắc phục được tình trạng bỏ việc của giáo viên hệ mầm non. Việc tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực học tập, dạy học chất lượng cao bước đầu được triển khai và đạt kết quả rất khả quan; giáo dục đạo đức, hạnh kiểm, giáo dục thể chất và kỹ năng sống được quan tâm thực hiện tốt hơn. Thành quả phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở được củng cố; mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi được thực hiện, hoàn thành sớm hơn 1 năm so với dự kiến ban đầu. Góp phần tạo chuyển biến tích cực về chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện ở các cấp học, ngành học(39) và nâng cao mặt bằng học vấn của người dân.

Định hướng phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị cũng được quan tâm chỉ đạo, thực hiện có nhiều tiến bộ; chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từng bước được nâng lên. Ngoài việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, BTV Tỉnh ủy cũng ban hành nhiều chủ trương để chỉ đạo, tổ chức thực hiện trong lĩnh vực này. Thực hiện khá tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp(40); đồng thời, đã tiến hành lựa chọn 150 cán bộ trẻ để đưa đi đào tạo, luân chuyển, từng bước bố trí, sắp xếp vào các chức danh cán bộ chủ chốt; lựa chọn 50 cán bộ có trình độ chuyên môn khá để đưa đi đào tạo chuyên sâu, trở thành các chuyên gia trên các lĩnh vực của tỉnh. Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương đưa sinh viên về cơ sở; sửa đổi, bổ sung chính sách thu hút nhân tài, khuyến khích tài năng trẻ, nữ phát triển; sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý và bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đội ngũ cán bộ cấp phòng và tương đương của sở, ban, ngành cấp tỉnh.

Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị, việc đào tạo trình độ cao và đào tạo nghề cho người lao động cũng được quan tâm làm tốt: đã quan tâm xây dựng mới và sắp xếp, nâng cao chất lượng đào tạo Trường đại học Bạc Liêu (thành lập Trường cao đẳng Nghề và Trường cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật, hình thành các trung tâm dạy nghề cấp huyện)(41).

Khoa học - công nghệ được coi trọng; nổi bật nhất là triển khai thành công dự án Nhà máy Điện gió, với công nghệ hiện đại; ứng dụng công nghệ tiên tiến vào dự án nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển khoa học và công nghệ đạt kết quả bước đầu, từng bước rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu ứng dụng với thực tiễn sản xuất. Nhiều đề tài về khoa học - công nghệ và xã hội - nhân văn được đầu tư nghiên cứu theo nhu cầu thực tế của tỉnh; hàm lượng khoa học trong lãnh đạo, quản lý được nâng lên; tỷ lệ ứng dụng các đề tài nghiên cứu vào sản xuất và đời sống ngày càng tăng(42). Lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng cũng được quan tâm hơn; nhiều doanh nghiệp đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, các công cụ cải tiến năng suất, chứng nhận hợp chuẩn, xây dựng mã vạch cho sản phẩm hàng hóa. Nhiều sản phẩm, hàng hóa được xây dựng thương hiệu như: Chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm muối Bạc Liêu, gạo Một bụi đỏ Hồng Dân; đăng ký nhãn hiệu tập thể gạo Tài nguyên Vĩnh Lợi, ngò rí Bạc Liêu và tôm, cua giống Gành Hào.

2.2- Văn hóa - xã hội có sự phát triển, tiến bộ rõ nét

Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân được nâng lên; cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng nhận thức rõ ý nghĩa tầm quan trọng về vai trò của văn hóa trong cuộc sống và văn hóa với phát triển. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như “Uống nước nhớ nguồn”, “Tương thân, tương ái”, tinh thần yêu quê hương, đất nước, nâng cao đạo đức cách mạng, đạo đức làm người, tính cách phóng khoáng, hào hiệp, trọng nghĩa, trọng tình, khoan dung... được phát huy mạnh mẽ. Các lễ hội truyền thống, lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng được quan tâm chỉ đạo tổ chức. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục phát triển theo hướng coi trọng chất lượng, gắn với xây dựng “Môi trường văn hóa lành mạnh” trong từng khóm, ấp, khu dân cư, nhất là khu vực đô thị(43). Đời sống văn hóa, tinh thần của người dân cả thành thị và nông thôn được nâng lên.

Với quan điểm quan tâm phát triển văn hóa ngang bằng với kinh tế, vừa để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, vừa góp phần phát triển kinh tế du lịch; bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa hiện có, 5 năm qua, tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa quan trọng trên địa bàn thành phố Bạc Liêu và ở các huyện, trong đó có công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả tốt, phục vụ thiết thực cho đời sống văn hóa, tinh thần của người dân trong tỉnh cả trước mắt và lâu dài, đồng thời tạo nên diện mạo mới cho tỉnh nói chung, thành phố Bạc Liêu nói riêng và góp phần quan trọng thúc đẩy du lịch, dịch vụ cũng như kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh phát triển.

Song song với việc xây dựng, đã tổ chức khai thác, phát huy tốt công năng các thiết chế văn hóa; tỉnh đã tổ chức và đăng cai tổ chức thành công nhiều hoạt động, sự kiện văn hóa thể thao quốc gia, quốc tế, đặc biệt là sự kiện Festival Đờn ca tài tử Quốc gia lần thứ nhất - Bạc Liêu 2014, vừa góp phần thúc đẩy phong trào phát triển, vừa phục vụ nhu cầu hưởng thụ của nhân dân và góp phần quảng bá về vùng đất, con người Bạc Liêu.

Hoạt động thông tin, báo chí, văn học - nghệ thuật có nhiều tiến bộ; đội ngũ văn nghệ sĩ có bước phát triển cả về số lượng, chất lượng, có nhiều tác phẩm hay, đoạt giải cao trong khu vực, quốc gia và quốc tế; có những đóng góp tích cực trong việc thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh nguyện vọng của nhân dân; góp phần định hướng dư luận, phản biện xã hội, tham gia đấu tranh chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội.

Hoạt động thể dục - thể thao có nhiều tiến bộ, thể thao thành tích cao đoạt nhiều huy chương quốc gia và quốc tế; thể thao quần chúng được duy trì và phát triển khá tốt(44). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm hơn. Cơ sở vật chất phục vụ công tác điều trị bệnh tại các bệnh viện tỉnh, huyện được tăng cường. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển, ước đến cuối năm 2015 có 38/64 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn về y tế; công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được đẩy mạnh, không có dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên địa bàn(45). Công tác dân số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,06% (chỉ tiêu 1,12%); tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 14% (chỉ tiêu giảm còn 14%).

2.3- Việc chăm lo cho gia đình chính sách, người có công, bảo đảm an sinh xã hội và chính sách giảm nghèo được quan tâm đặc biệt và đạt nhiều kết quả quan trọng

Trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách và các giải pháp cụ thể chỉ đạo thực hiện công tác an sinh xã hội và chính sách giảm nghèo trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên quan tâm làm tốt công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động; kịp thời hỗ trợ chuyển đổi việc làm cho lao động nông thôn; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 46,3% (chỉ tiêu nghị quyết là 45%)(46); tạo điều kiện cho người nghèo vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, góp phần giảm nghèo, từng bước cải thiện, nâng cao mức sống.

Các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện khá tốt, nhất là chính sách bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, các đối tượng chính sách, người có công, người cao tuổi; đặc biệt, tỉnh đã vận dụng hỗ trợ cấp phát thẻ BHYT cho 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo (theo quy định của Trung ương chỉ hỗ trợ 70%); thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh và trợ giúp thường xuyên cho hơn  22.000 người.

Công tác giảm nghèo và thực hiện chính sách an sinh xã hội được quan tâm đặc biệt. 5 năm qua, tỉnh đã vận động “Quỹ Vì người nghèo và An sinh xã hội” số tiền hơn 700 tỷ đồng. Duy trì, thực hiện tốt chủ trương đảng viên nhận đỡ đầu hộ nghèo, cơ quan, doanh nghiệp giúp đỡ hộ nghèo, bình quân mỗi năm hơn 6.500 hộ nghèo và 3.200 hộ cận nghèo được thoát nghèo(47).

Chính sách ưu đãi đối với người có công được thực hiện tốt; toàn tỉnh có hơn 59.000 người có công được thụ hưởng chính sách ưu đãi, trong đó có gần 12.000 người được hưởng chính sách ưu đãi thường xuyên. Nhiều chủ trương, việc làm cụ thể được đề ra, nhằm thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình chính sách và người có công. Hiện nay, toàn tỉnh không còn gia đình chính sách nghèo, 100% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư trong cùng địa bàn. Bên cạnh đó, thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, trùng tu, tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ tỉnh(48) và các huyện khang trang, sạch đẹp; xây dựng các tượng đài, bia tưởng niệm ghi công các anh hùng liệt sĩ, nhằm góp phần giáo dục truyền thống cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

3- Công tác nội chính được quan tâm chỉ đạo; quốc phòng - an ninh được tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác cải cách tư pháp đạt kết quả quan trọng

Việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác nội chính được thực hiện khá tốt. BTV và Thường trực Tỉnh ủy đã kịp thời chỉ đạo, cho đường hướng xử lý, giải quyết, truy tố xét xử đúng pháp luật những vụ án hình sự nghiêm trọng, phức tạp và một số vụ án có liên quan đến cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh ủy quản lý. Chỉ đạo tiến hành nhiều cuộc kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật đối với các cơ quan trong khối nội chính và kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo tinh thần Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở 22 tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh ủy.

Nhiệm vụ quân sự, quốc phòng được thực hiện tốt, kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội; công tác diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố được thực hiện nghiêm túc; công tác huấn luyện lực lượng thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ ngày càng nền nếp, chất lượng hơn. Công tác tuyển chọn và gọi thanh niên nhập ngũ hằng năm đều đạt chỉ tiêu với chất lượng ngày càng cao. Chính sách hậu phương quân đội được thực hiện khá tốt.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác phòng, chống âm mưu “Diễn biến hòa hình” , “Tự diễn biến”,  “Tự chuyển hóa” được tăng cường; công tác đấu tranh, ngăn chặn các âm mưu hoạt động phá hoại, kích động, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bọn phản động và đấu tranh trấn áp các loại tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện kịp thời và hiệu quả. Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt; công tác xây dựng lực lượng công an các cấp ngày càng trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Các lực lượng vũ trang được quan tâm xây dựng cả về chất lượng và khả năng sẵn sàng chiến đấu; thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh nhằm nâng cao ý thức cảnh giác và trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Công tác cải cách tư pháp đạt được những kết quả bước đầu; tổ chức bộ máy một số cơ quan bảo vệ pháp luật được củng cố, kiện toàn; cơ sở vật chất được đầu tư; đã hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân các huyện, thị xã, thành phố theo đúng lộ trình; hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật từng bước được nâng lên, hạn chế được oan sai; nhiều vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài đã được giải quyết.

II- CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

1- Hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền được nâng lên

Vai trò của HĐND và đại biểu HĐND các cấp ngày càng được phát huy. Chất lượng, nội dung các kỳ họp ngày càng được nâng cao. Công tác giám sát được chú trọng, thông qua hoạt động của HĐND, các  ý kiến, kiến nghị của cử tri được chính quyền các cấp tiếp thu, chấn chỉnh và triển khai thực hiện có hiệu quả.

Bộ máy quản lý nhà nước các cấp được kiện toàn theo hướng tinh gọn. Năng lực quản lý, điều hành của UBND các cấp được nâng lên. Công tác cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở có nhiều tiến bộ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong tỉnh đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm với quê hương, năng động, sáng tạo, tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị được nâng lên.

Công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước được tăng cường; UBND các cấp đã dành thời gian thỏa đáng tiếp và giải quyết các yêu cầu, khiếu nại của công dân; thực hiện tốt việc công khai và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết các vấn đề có liên quan.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính Nhà nước đạt kết quả bước đầu, đáp ứng khá tốt yêu cầu lãnh đạo, điều hành và thông tin, quảng bá hình ảnh, giới thiệu tình hình của tỉnh đến các tầng lớp nhân dân trong tỉnh và cả nước. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được chú trọng; một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực được phát hiện và xử lý theo quy định pháp luật.

2- Trình độ năng lực và tâm huyết của đội ngũ cán bộ chuyển biến tích cực; việc cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ

Việc nâng cao năng lực và tâm huyết của đội ngũ cán bộ đã được Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy đặc biệt quan tâm, chú trọng. Nhiều biện pháp cụ thể đã được triển khai thực hiện hiệu quả, tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của đội ngũ cán bộ, công chức.

Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khoá XI) và Chỉ thị 07 của BTV Tỉnh ủy. Quan tâm nhiều hơn về công tác xây dựng Đảng, nhất là việc xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ theo tinh thần Chỉ thị số 10 của Bộ Chính trị; chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình, đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên theo quy định. Thực hiện tốt việc sắp xếp, phân công điều động, luân chuyển cán bộ chủ chốt của một số ngành tỉnh và các huyện, thành phố; chuyển đổi một số vị trí công tác theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 về phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Công tác cải cách thủ tục hành chính được chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Nhiều thủ tục, giấy tờ không cần thiết đã được giảm bớt; thời gian giải quyết được rút ngắn; tinh thần, thái độ của cán bộ, công chức các cơ quan khi làm việc với người dân, doanh nghiệp đã được chú trọng theo hướng cởi mở, thân thiện và chia sẻ.

Nhìn chung, việc thực hiện các giải pháp nêu trên đã đem lại kết quả bước đầu quan trọng. Hiệu quả công việc ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị đã cao hơn. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực về nhận thức, hành động và về đạo đức, lối sống, nhất là trách nhiệm với quê hương, sự năng động, sáng tạo, đóng góp cho cái chung cao hơn; cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tốt hơn; giải quyết yêu cầu, khiếu nại của người dân có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều yêu cầu bức xúc được giải quyết; đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp có phong cách chỉ đạo mới, quyết tâm chính trị cao, sâu sát công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

3- Công tác vận động quần chúng được quan tâm nhiều hơn; nội dung, phương thức hoạt động MTTQ, các đoàn thể có nhiều đổi mới; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường

MTTQ và các đoàn thể đã phát huy khá tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội và làm nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; có nhiều cố gắng trong việc tập hợp đoàn viên, hội viên tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn tại địa phương; khơi dậy lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, lòng nhân ái, tính năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy ngày càng vững mạnh, phát triển số lượng(49) và chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ; tích cực góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

MTTQ và các đoàn thể còn thể hiện khá tốt vai trò đại diện cho đoàn viên, hội viên trong lĩnh vực mình phụ trách. Tham gia thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Góp phần quan trọng trong công tác vận động chức sắc các tôn giáo và đồng bào có đạo, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức thực hiện nghĩa vụ công dân, sống “tốt đời - đẹp đạo”; làm đầu mối quan trọng trong thực hiện công tác vận động kiều bào người Bạc Liêu đóng góp xây dựng tỉnh nhà và đấu tranh chống lại các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước. Tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện, nhân đạo, xây dựng đời sống văn hóa. Việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Hầu hết các chương trình, dự án xây dựng hạ tầng được đầu tư, thực hiện đồng bộ, có trọng điểm, nhất là đối với các xã đang thụ hưởng Chương trình 135, chương trình về nhà ở, đất ở, giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục, y tế...

4- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ không ngừng được nâng lên

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức. Việc nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết của Đảng được quan tâm, luôn gắn với việc cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, phù hợp với tình hình của tỉnh. Đã thực hiện khá chủ động công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho cán bộ, đảng viên nắm vững và hiểu đúng tình hình quốc tế, trong nước, nhất là các thông tin về biên giới, biển đảo, các vấn đề liên quan đến chủ quyền của quốc gia và các vấn đề nhạy cảm khác, từ đó góp phần củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.

Chỉ đạo, thực hiện tương đối tốt công tác kiểm tra, giám sát và sơ, tổng kết các chủ trương, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, qua đó kịp thời phát hiện, uốn nắn những lệch lạc, đề ra các biện pháp phù hợp để giáo dục nâng cao nhận thức, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên.

Lãnh đạo các cơ quan báo chí trong tỉnh làm tốt vai trò, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền và định hướng dư luận; chỉ đạo triển khai kịp thời quy định về phối hợp giữa các cơ quan báo chí với cơ quan chủ quản và cơ quan hữu quan;  xây dựng và thực hiện quy định về việc định hướng thông tin trên báo chí nhất là các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm; chỉ đạo thực hiện tốt họp báo hằng tháng với các cơ quan báo chí trên địa bàn, qua đó kịp thời định hướng thông tin, uốn nắn những lệch lạc; đồng thời cũng đã chỉ đạo thực hiện tốt vai trò người phát ngôn của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các ngành chức năng trong việc cung cấp thông tin cho báo chí. Thực hiện tốt việc thông tin, phản ánh tình hình trong nước và trong tỉnh đến các chi bộ, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và chất lượng sinh hoạt chi bộ.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, BTV Tỉnh ủy tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong BTV Tỉnh ủy và chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình, qua đó những khuyết điểm, yếu kém được nhận diện. Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, BTV Tỉnh ủy đã xây dựng và triển khai 17 chương trình, kế hoạch với các biện pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế khuyết điểm trên các lĩnh vực; thường xuyên chỉ đạo kiểm tra, nhắc nhở, uốn nắn, chấn chỉnh lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm với công việc được giao và thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức các ngành, các cấp trong tỉnh.

Công tác cán bộ được thực hiện đồng bộ từ việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm, sắp xếp; đội ngũ cán bộ được sắp xếp, bố trí hầu hết phù hợp với năng lực, sở trường, phát huy tốt ở cương vị mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ(50). Việc tạo nguồn cán bộ dài hạn, cán bộ trẻ, nữ được quan tâm; chủ trương đưa cán bộ trẻ có trình độ đại học về cơ sở được thực hiện tích cực.

Việc xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của các chi bộ theo tinh thần Chỉ thị số 10 của Bộ Chính trị được quan tâm chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc và có chuyển biến tích cực, số tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ tăng lên(51); công tác phát triển đảng viên được thực hiện đạt kết quả tốt(52).

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng, bảo vệ tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên được tiến hành thường xuyên. Đã cơ bản hoàn thành việc rà soát lịch sử chính trị đối với cán bộ đương nhiệm và cán bộ được quy hoạch vào các chức danh thuộc diện quản lý của BTV Tỉnh ủy.

Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã có những chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả quan trọng. Cấp ủy các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 30, Điều lệ Đảng, chú trọng xây dựng các quy định, quy chế, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức nhiều cuộc kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực. ủy ban kiểm tra cấp ủy các cấp đã tích cực, chủ động thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do cấp ủy giao; góp phần tích cực trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn, phòng ngừa, hạn chế khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian qua.

Công tác dân vận được quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt. BTV Tỉnh ủy đã ban hành nhiều chủ trương về công tác vận động quần chúng(53) và đã được Ban Dân vận, MTTQ, các đoàn thể và các cấp, các ngành tổ chức triển khai thực hiện đạt hiệu quả bước đầu, góp phần quan trọng động viên các tầng lớp nhân dân đoàn kết, đồng thuận, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ qua.

5- Việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được thực hiện nghiêm túc và đạt kết quả quan trọng

BTV Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc tinh thần, nội dung Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 07 và Kết luận số 33 của BTV Tỉnh ủy về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; gắn việc thực hiện chủ trương này với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về phòng, chống tham nhũng lãng phí; chỉ đạo thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp theo tinh thần Quy định số 101, ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư. Nhiều ngành, cơ quan, đơn vị đã có những cách làm mới, sáng tạo để cụ thể hóa chủ trương của Bộ Chính trị và BTV Tỉnh ủy, góp phần nâng cao chất lượng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

Việc thực hiện các chủ trương nêu trên đã có tác dụng tích cực trong rèn luyện đạo đức, giữ gìn lối sống và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên, công chức với nhân dân. Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị và của đảng viên đều được nâng lên. Phong trào tương thân, tương ái trong nhân dân; tinh thần vượt khó trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân được thể hiện rõ nét. Việc chăm lo cho gia đình chính sách, người có công với nước; hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo và người có hoàn cảnh bất hạnh luôn được quan tâm thực hiện; công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân được tốt hơn; giải quyết khiếu nại, yêu cầu của người dân có nhiều chuyển biến tích cực. Góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ và xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

6- Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng ngày càng sâu sát, cụ thể và hiệu quả hơn

Phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ngày càng sâu sát, thiết thực và cụ thể. Đã chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế làm việc chặt chẽ, đúng chức năng của mỗi cấp; phân công cụ thể trách nhiệm tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo trong việc triển khai và kiểm tra thực hiện các chủ trương, nghị quyết. Lề lối làm việc được cải tiến, chất lượng các cuộc hội nghị được nâng cao, cởi mở, dân chủ và dành nhiều thời gian cho thảo luận.

BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện khá tốt vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt công tác của Đảng bộ và hệ thống chính trị thông qua các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, kết luận của Tỉnh ủy và hoạt động của BTV và Thường trực Tỉnh ủy theo quy định của Ban Bí thư và quy chế làm việc đã đề ra.

Các đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn trong lĩnh vực, địa bàn được phân công phụ trách. Nhiều đồng chí đã thể hiện được tinh thần trách nhiệm cao trước tập thể, tham gia chuẩn bị nội dung, tham dự đầy đủ và tích cực thảo luận, đóng góp ý kiến tại các phiên họp BCH Đảng bộ tỉnh; tham gia nghiêm túc và có chất lượng các ban chỉ đạo, các tiểu ban, các tổ công tác... của Tỉnh ủy, của BTV và Thường trực Tỉnh ủy khi được phân công. Một số đồng chí đã chủ động đề xuất với BCH, BTV và Thường trực Tỉnh ủy những vấn đề liên quan đến lĩnh vực và địa phương được phân công phụ trách; đóng góp có trách nhiệm, hiệu quả vào sự lãnh đạo chung của tập thể BCH Đảng bộ tỉnh. Việc chất vấn và trả lời chất vấn đã được thực hiện đạt kết quả bước đầu, góp phần nâng cao chất lượng và mở rộng dân chủ trong sinh hoạt của BCH Đảng bộ tỉnh.

Các thành viên BTV Tỉnh ủy thể hiện tinh thần trách nhiệm, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao; đóng góp tích cực vào sự lãnh đạo của tập thể BTV Tỉnh ủy, đồng thời phát huy khá tốt vai trò cá nhân trong cương vị, ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách.

Phong cách lãnh đạo của Thường trực Tỉnh ủy được đổi mới theo hướng sâu sát, cụ thể; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn việc thực hiện các chủ trương của Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy đã đề ra; thực hiện tốt quy chế làm việc; kịp thời trao đổi, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác lãnh đạo, điều hành, tạo được sự đoàn kết, thống nhất, trên cơ sở mở rộng dân chủ, thẳng thắn đấu tranh xây dựng trong Thường trực và BTV cấp uỷ.

B- HẠN CHẾ, YẾU KÉM

1- Mặc dù đã có sự phát triển khá rõ nhưng chưa bền vững; so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, vẫn còn 8/21 chỉ tiêu chưa đạt theo Nghị quyết Đại hội XIV đề ra, trong đó tốc độ tăng trưởng kinh tế (12,1%./13,5%); thu ngân sách (1.170/2.020 tỷ đồng)...; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tuy đúng hướng song vẫn còn chậm; cụ thể: Khu vực nông nghiệp chiếm 47,46% (năm 2015/36,40% (cả nhiệm kỳ), khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,44% (năm 2015/31,70% (cả nhiệm kỳ), khu vực dịch vụ chiếm 27,10% (năm 2015/31,90% (cả nhiệm kỳ); hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và phục vụ nhân dân, nhất là hạ tầng giao thông, điện, thủy lợi, hệ thống bệnh viện; năng suất lao động chưa cao, các điều kiện phục vụ sản xuất nông nghiệp có lúc chưa chủ động; đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vẫn còn khó khăn.

Một số chương trình, dự án trọng điểm do Đại hội XIV xác định chưa đạt kết quả như mong muốn; một số dự án thực hiện gặp khó khăn do không đủ nguồn lực và do chủ trương, chính sách của Nhà nước thay đổi so với đầu nhiệm kỳ.

Việc phát huy nội lực, thu hút ngoại lực đạt được kết quả quan trọng, song chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Doanh nghiệp có quy mô lớn còn ít; thu ngân sách còn nhiều hạn chế, chưa có nhiều nguồn thu lớn và ổn định để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh.

Nhận thức và ý thức của một số tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường còn hạn chế; công tác quản lý nhà nước về môi trường còn một số trường hợp bất cập, nhất là khâu kiểm tra, xử lý tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường chưa nghiêm; công tác giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên và môi trường tuy có chuyển biến tích cực nhưng vẫn chậm so với yêu cầu.

2- Chất lượng giáo dục, đào tạo có một số mặt chưa đạt so với yêu cầu; đào tạo thiếu gắn kết với nhu cầu của thị trường lao động; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu; việc thực hiện xã hội hóa giáo dục còn chậm; chất lượng nguồn nhân lực chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển của tỉnh.

Hệ thống y tế cơ sở, y tế cộng đồng chưa đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho nhân dân; tình trạng quá tải của Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã có giải pháp nhưng chưa khắc phục triệt để; tình trạng thiếu cán bộ y tế vẫn còn xảy ra ở một số cơ sở y tế, ảnh hưởng đến chất lượng điều trị; trang thiết bị các trạm y tế còn thiếu, không đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân tuyến cơ sở; tinh thần, thái độ phục vụ của một số bác sĩ, nhân viên y tế chưa cao; công tác quản lý nhà nước về y tế có mặt còn hạn chế.

Văn hóa tuy có bước phát triển, tiến bộ nhưng vẫn chưa tương xứng với kinh tế và các lĩnh vực khác; chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, khóm, ấp văn hóa còn thấp, tinh thần và nội dung về văn hóa được nêu trong chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương IX về văn hóa triển khai thực hiện chậm. Cơ sở vật chất, trang thiết bị tại các thiết chế văn hóa - thể thao ở cơ sở còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.

Việc đầu tư phát triển một số bộ môn thể thao thành tích cao còn hạn chế; cơ sở vật chất, cơ chế chính sách đối với vận động viên, huấn luyện viên chưa bảo đảm; việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục và thể dục, thể thao kết quả đạt được chưa nhiều; các dịch vụ phục vụ khách du lịch còn hạn chế, chưa chuyên nghiệp; nguồn nhân lực du lịch qua đào tạo còn ít; công tác quản lý, phát huy giá trị của các di tích chưa được thực hiện triệt để; các câu lạc bộ đờn ca tài tử gắn với phát triển du lịch chưa thật sự chuyên nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao.

3- Trật tự an toàn xã hội và tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội và khiếu kiện đông người còn xảy ra khá nhiều, diễn biến phức tạp; tham nhũng, lãng phí còn xảy ra, việc giải quyết còn chậm; cải cách thủ tục hành chính tuy đã đạt kết quả khá tốt và góp phần quan trọng vào việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh, nhưng vẫn còn nhiều việc sự phối hợp giải quyết của các cơ quan chức năng chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng đến sự hài lòng của các doanh nghiệp; chỉ số quản trị công còn đứng ở mức thấp so với cả nước.

4- Chất lượng hệ thống chính trị có nơi chưa ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Công tác xây dựng đảng, nhất là việc nâng cao chất lượng đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Một số tổ chức đảng chưa thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị. Tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình, nhất là trong đấu tranh chống tham nhũng chưa cao. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên nhiều nơi chưa đúng thực chất, vẫn còn biểu hiện chạy theo thành tích.

Công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nhất là công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, tình hình của tỉnh có lúc chưa kịp thời. Việc triển khai thực hiện một số quy định, chương trình, kế hoạch khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên lĩnh vực chính trị tư tưởng còn chậm, kết quả đạt được chưa cao; công tác tư tưởng từng lúc, từng nơi chưa làm được vai trò tuyên truyền nhằm thống nhất ý chí và hành động trong đảng bộ.

Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ còn chậm, từng lúc chưa đáp ứng yêu cầu, việc bố trí, sắp xếp cán bộ có trường hợp còn chắp vá. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức và người lao động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của tỉnh đặt ra; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức tinh thần trách nhiệm chưa cao, tinh thần phục vụ nhân dân chưa thật tốt; việc thực hiện các nguyên tắc của Đảng, nguyên tắc phát ngôn, việc thực hiện những điều đảng viên không được làm chưa nghiêm túc trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Việc thực hiện các chủ đề làm theo tấm gương đạo đức của Bác theo tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 07 và Kết luận 33 của BTV Tỉnh ủy ở một số cơ quan, đơn vị chưa được duy trì thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức.

Việc khắc phục khuyết điểm, thiếu sót sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) có những nội dung thực hiện còn chậm. Việc kiểm tra, uốn nắn, đôn đốc thực hiện một số chủ trương, giải pháp khắc phục khuyết điểm của BTV Tỉnh ủy chưa được tiến hành thường xuyên và quyết liệt.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên nhiệm vụ này. Đội ngũ cán bộ kiểm tra ở một số nơi chưa đủ mạnh, chưa tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, giám sát để đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa các biểu hiện vi phạm đạt hiệu quả cao nhất.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể chưa nhận thức đúng mức tầm quan trọng của công tác dân vận và trách nhiệm trong công tác dân vận theo tinh thần Quy định 2310 của BTV Tỉnh ủy (khóa XIII). Nội dung, phương thức công tác dân vận còn nặng tính hành chính; một số nơi nắm không sát dân. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế; có lúc bị động, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; chất lượng hoạt động chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao.

C- ĐÁNH GIÁ CHUNG

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước và trong tỉnh có rất nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có những vấn đề mới phát sinh ngoài dự báo của Đại hội. Nhưng với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện.

Kinh tế duy trì tăng trưởng ở mức khá cao; một số ngành, lĩnh vực phát triển vượt bậc; một số dự án kinh tế động lực được hình thành; quy mô nền kinh tế tăng lên, nền tảng kinh tế - xã hội của tỉnh đã có sự thay đổi quan trọng; hoàn thành cơ bản các mục tiêu lớn của Đại hội đề ra. Công nghiệp, nông nghiệp và thủy sản phát triển theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và ứng dụng công nghệ cao; du lịch tạo sự bứt phá đáng kể; trong điều kiện kinh tế tuy còn khó khăn, nhưng nguồn thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước.

Văn hóa, văn học nghệ thuật, thể thao đạt được nhiều thành tựu nổi bật; chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên. Chăm lo gia đình chính sách, người có công, bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác giảm nghèo đạt được những kết quả có ý nghĩa. Đời sống vật chất, tinh thần của đa số người dân được nâng cao hơn. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được bảo đảm.

Đối ngoại đạt nhiều kết quả quan trọng; môi trường đầu tư được cải thiện; sự thiện cảm các nơi dành cho Bạc Liêu nhiều hơn. Diện mạo của tỉnh, từ thành thị đến nông thôn đều có những đổi mới sâu sắc; vị thế và uy tín của tỉnh được nâng lên. Công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều tiến bộ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ; niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền được củng cố, nâng cao. Những kết quả đạt được nêu trên tạo tiền đề quan trọng để tỉnh ta phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới.

Tuy nhiên, kết quả thực hiện một số chương trình, nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XIV đề ra chưa được như mong muốn; một số nhiệm vụ chỉ tiêu thực hiện chưa đạt. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đặt ra; nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp; đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là vùng dân tộc, vùng sâu vẫn còn khó khăn.

D- NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC

I- NGUYÊN NHÂN

1- Nguyên nhân của thành tựu

1.1- Đường hướng, nhiệm vụ, nhất là các chương trình, lĩnh vực ưu tiên mà nghị quyết đại hội đề ra đều phù hợp với tình hình thực tiễn, có tính chất chi phối, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.

1.2- Quá trình tổ chức thực hiện, Tỉnh ủy, BTV, Thường trực Tỉnh ủy, HĐND, Ban cán sự đảng UBND tỉnh cụ thể hóa thành các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, rõ ràng; trong chỉ đạo biết chọn khâu đột phá, xác định đúng trọng tâm, có trọng điểm và tổ chức thực hiện quyết liệt; thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, uốn nắn kịp thời.

1.3- Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy và các cấp ủy, chính quyền có quyết tâm chính trị cao; quá trình thực hiện có nhiều sáng tạo, kịp thời và chủ động đề ra chủ trương, giải pháp để huy động nguồn lực cho phát triển, phá thế bế tắc lâu nay về nguồn lực phát triển.

1.4- MTTQ, các đoàn thể và các cơ quan có chức năng tuyên truyền đã tham gia tích cực vào nhiệm vụ chính trị mà cấp ủy, chính quyền quan tâm; phối hợp thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và của tỉnh đến các tầng lớp nhân dân; qua đó, tạo được sự đồng thuận khá cao trong đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

1.5- Năng lực và sự tâm huyết của đa số cán bộ, đảng viên, công chức được nâng lên rõ nét; tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, ý thức phục vụ nhân dân, sự năng động, sáng tạo, đóng góp cho cái chung cao hơn; cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tốt hơn; đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành có phong cách chỉ đạo mới, nói đi đôi với làm, làm đến cùng, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát công việc hơn.

1.6- Sự quan tâm chỉ đạo, ủng hộ hiệu quả của Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, các địa phương trong khu vực và cả nước; sự nỗ lực, đóng góp, giúp đỡ của các tổ chức, tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.

2- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

2.1- Những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khó khăn của kinh tế đất nước cùng với những khó khăn nội tại kinh tế - xã hội của tỉnh đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ. Bên cạnh việc không có nhiều lợi thế về thu hút đầu tư, thì nhiều khó khăn, thách thức mới phát sinh mà tại thời điểm diễn ra Đại hội chưa dự báo trước được; một số chủ trương, chính sách của Nhà nước thay đổi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong khi một số chỉ tiêu, nhiệm vụ được Đại hội đề ra với yêu cầu khá cao, dẫn đến việc tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn, chưa đạt như mong muốn (còn 08/21 chỉ tiêu chưa đạt).

2.2- Tác động bất lợi của biến đổi khí hậu toàn cầu, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch bệnh liên tục diễn ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân.

2.3- Là tỉnh nghèo, nhu cầu về nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội còn rất cao, nhưng lại rơi vào thời điểm thực hiện chủ trương thắt chặt đầu tư công, điều này ảnh hưởng không nhỏ trong việc thu hút nguồn lực đầu tư phát triển.  Do Bạc Liêu xa các trung tâm, hạ tầng chưa đồng bộ, không nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, không có nhiều lợi thế thu hút đầu tư nên chưa có nhiều doanh nghiệp ngoài tỉnh, nước ngoài đến đầu tư vào những lĩnh vực mà tỉnh có tiềm năng để tạo nguồn thu lớn, ổn định cho ngân sách. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong tỉnh hầu hết có quy mô nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh thấp.

2.4- Do mặt bằng kinh tế - xã hội của tỉnh rất thấp nên có rất nhiều công việc phải làm, trong đó có nhiều việc mới, độ khó cao. Mặt khác, do năng lực, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên việc điều hành, tổ chức thực hiện của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các cấp, các ngành từng lúc chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trình độ, năng lực còn hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao, nên kết quả đem lại chưa như mong muốn.

2.5- Yêu cầu, khiếu nại của dân có nhiều vụ việc phức tạp; một số cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, có điểm chưa phù hợp; một số vụ việc giải quyết thiếu kiên quyết, cùng với sự bất hợp tác của người khiếu nại, nên việc giải quyết một số vụ việc gặp khó khăn, vướng mắc, tốn kém nhiều công sức và thời gian.

II- NHỮNG KINH NGHIỆM

Một là, phải biết khơi dậy khát vọng phát triển và lòng yêu quê hương đối với cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân; phải khuyến khích tính năng động, sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp để mọi người đem hết khả năng cống hiến... Phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp theo hướng sâu sát, cụ thể và đeo bám công việc đến cùng. Phải đổi mới trong tư duy phát triển, cách làm, biết chọn đúng khâu đột phá để chỉ đạo.

Hai là, trong điều kiện nguồn lực gặp nhiều khó khăn, phải quyết định đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng nông nghiệp - nông thôn, song cũng phải quan tâm đúng mức đến phát triển đô thị; chú trọng phát triển kinh tế nhưng phải xem trọng phát triển văn hoá, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; đề cao yếu tố văn hóa, đạo đức trong lãnh đạo, điều hành và trong đường hướng phát triển của tỉnh.

Ba là, trong tình trạng tỉnh nghèo không thuận lợi về nhiều mặt, phải chú trọng thu hút ngoại lực, đẩy mạnh phát huy nội lực, đây là bài học kinh nghiệm quan trọng để phá thế bế tắc của tỉnh trong nhiều năm qua.

Bốn là, phải tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước và của tỉnh trên cơ sở đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong nội bộ Đảng, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền của các cơ quan thông tin đại chúng và phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân.

 PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHIỆM KỲ 2015 - 2020

I- PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1- Dự báo tình hình

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn sẽ có những diễn biến phức tạp, khó lường. Kinh tế thế giới trong xu hướng hồi phục nhưng chậm, tiềm ẩn nhiều khó khăn, bất ổn, khó lường; cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ giữa các nước lớn và vấn đề tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt; những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, 5 năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN, WTO, các hiệp định thương mại, hiệp định TPP, APEC… đã cam kết với nhiều nước, cùng với quá trình toàn cầu hóa sẽ tạo thêm nhiều thị trường, nhiều thuận lợi và cơ hội, song cũng đi liền khó khăn, thách thức; cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; biến đổi khí hậu phức tạp, khó lường. Bốn nguy cơ mà Đảng đã dự báo vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn nghiêm trọng.

- Đối với tỉnh: Bạc Liêu nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu mát mẻ quanh năm, ít bị ảnh hưởng bởi lũ, bão. Có bờ biển dài 56km cùng với vùng lãnh hải rộng trên 40.000km2, có diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất có khả năng nuôi trồng thủy sản lớn; có tài nguyên thềm lục địa, tài nguyên biển, tiềm năng gió… là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển và ven biển như nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp và các ngành kinh tế biển khác. Có điều kiện thuận lợi về hạ tầng giao thông (4 đường Quốc lộ và 1 tuyến đường cao tốc dự kiến qua tỉnh Bạc Liêu) kết nối khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và các vùng khác, từ đó làn sóng đầu tư nước ngoài vào nước ta và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long ngày càng lớn và xu thế chuyển dần các ngành, sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam về khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, hướng phát triển của tỉnh đã được định hình, kinh tế - xã hội đã có nhiều khởi sắc, làm thay đổi rõ nét diện mạo của tỉnh, tạo ra khí thế mới và là tiền đề quan trọng để đảng bộ, quân và dân trong tỉnh tiếp tục phấn đấu đưa tỉnh nhà phát triển lên tầm cao mới.

Tuy nhiên, khó khăn, thách thức vẫn còn nhiều. Tỉnh vẫn còn nghèo; quy mô kinh tế còn nhỏ; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày một nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời sống của người dân; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tuy đã có nhiều tiến bộ, song vẫn chưa đồng bộ và còn kém so với nhiều tỉnh trong khu vực và cả nước; nhu cầu về đầu tư phát triển còn khá lớn, trong khi năng lực nội tại của nền kinh tế yếu, nguồn lực đầu tư lại hạn chế; nguồn nhân lực tuy dồi dào nhưng lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao còn quá ít...

Các yếu tố trên sẽ tạo ra cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển tỉnh nhà, đòi hỏi toàn đảng bộ, quân và dân trong tỉnh phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa; đề ra chủ trương, cách thức và bước đi phù hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra.

2- Phương hướng, mục tiêu tổng quát

Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; huy động mọi nguồn lực để phát triển tỉnh nhà; đầu tư, khai thác theo chiều sâu tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, nhất là kinh tế biển, sản xuất nông nghiệp, văn hóa, du lịch; đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tập trung những dự án trọng điểm để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là khu vực nông thôn. Đẩy mạnh phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tập trung xây dựng nông thôn mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng trên lĩnh vực này.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn - xã hội trong mọi tình huống.

Tập trung xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động và phát huy vai trò của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội; củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội; phát huy vai trò của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng và phát triển tỉnh nhà. Phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ, Bạc Liêu đứng vào tốp các tỉnh khá trong khu vực và trung bình khá của cả nước.

3- Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020

* Về kinh tế:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2016 - 2020: 6,2 - 6,5%/năm.

- Cơ cấu kinh tế (giá hiện hành):

+ Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản: 40,82%,

+ Khu vực dịch vụ: 41,89%,

+ Khu vực công nghiệp và xây dựng: 16,36%,

+ Riêng thuế NK, thuế sản phẩm là SP - trợ cấp sản phẩm: 0,93%.

- Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) bình quân đầu người khoảng 54,2 triệu đồng.

- Thu ngân sách trong cân đối tăng bình quân hàng năm đạt 7,5%/năm.

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 19.050 tỷ đồng.

- Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2020 đạt 785 triệu USD.

- Sản lượng lương thực (lúa) đạt 1.100.000 tấn.

- Sản lượng thủy sản 370.000 tấn, trong đó tôm 147.000 tấn.

- Nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đứng trong tốp 20 trong số các tỉnh, thành hằng năm.

- Phấn đấu mỗi năm phát triển từ 15 - 20 HTX mới và trong nhiệm kỳ phát triển từ 1 - 2 liên hiệp HTX.

- Phấn đấu đạt 100% số xã có đường ô tô về đến trung tâm.

* Về xã hội:

- Có 50% số xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới.

- Tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm giảm 2%.

- Tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia 99,8 %.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo phấn đấu đạt 65%.

- 100% số xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế.

- Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội toàn dân đến năm 2020 đạt 80%.

- Phấn đấu đạt 25 giường bệnh/1 vạn dân.

- Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia 62,5%.

* Về môi trường:

- Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị 85%.

- Tỷ lệ hộ dùng nước sạch 70% (trong đó khu vực nông thôn 60%).

- 100% khu, cụm công nghiệp đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung.

II- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

1- Đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng dịch vụ, công nghiệp; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại; phát triển mạnh dịch vụ - du lịch; phát triển đô thị hài hòa với nông thôn

1.1- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp

Tiếp tục chỉ đạo quyết liệt thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng ứng dụng khoa học - công nghệ cao, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu; phát triển hiệu quả, bền vững các vùng sản xuất sản phẩm chủ lực, nâng cao hệ số sử dụng đất; phát triển bền vững cả 2 vùng Bắc, Nam Quốc lộ 1A.

Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết nông dân với doanh nghiệp thông qua HTX theo chuỗi giá trị. Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp. Hỗ trợ áp dụng tiêu chuẩn VietGAP trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong giảm tổn thất trong và sau thu hoạch. Triển khai thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân.

Đầu tư phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, đưa Bạc Liêu trở thành tỉnh mạnh về phát triển kinh tế biển. Chú trọng phát triển đánh bắt xa bờ và hậu cần nghề cá, đóng và sửa chữa tàu, các mô hình dịch vụ trên biển, du lịch biển. Có chính sách thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư để phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển một cách bền vững. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động cụm kinh tế ven biển.

- Về trồng trọt: Đối tượng chủ lực là cây lúa (lúa chất lượng cao, lúa thơm, lúa đặc sản địa phương) và rau, đậu thực phẩm (rau, đậu các loại, măng tây, ngò rí...); đối tượng có khả năng phát triển là cây ăn trái (chú trọng phát triển cây Thanh nhãn), cây nấm (nấm ăn và nấm dược liệu), cây bắp (bắp nếp dùng để ăn và bắp lai dùng để làm thức ăn trong chăn nuôi) và hoa kiểng. Ổn định diện tích đất chuyên trồng lúa, phát triển diện tích trồng lúa trên đất tôm, tập trung nâng cao chất lượng, không chạy theo số lượng, với cơ cấu giống lúa chất lượng cao (gạo trắng, hạt dài, thơm nhẹ hoặc không thơm) chiếm 50 - 60%; giống lúa thơm, đặc sản địa phương chiếm khoảng 30 - 40% và còn lại lúa gạo cấp thấp chiếm khoảng 10%. Xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn (măng tây, ngò rí lấy hạt và các loại rau, củ, quả khác). Triển khai xây dựng vùng sản xuất lúa ứng dụng công nghệ cao (30.000ha), vùng sản xuất rau ứng dụng công nghệ cao (1.350ha), vùng sản xuất lúa giống chất lượng cao, sạch bệnh (500ha), đẩy mạnh xây dựng cánh đồng lớn (trong sản xuất lúa) theo hướng gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm (phấn đấu đạt 30 - 40% diện  tích gieo trồng lúa vào năm 2020).

- Về chăn nuôi: Đối tượng chủ lực gồm heo, gia cầm và bò; xây dựng các cơ sở sản xuất an toàn dịch bệnh, nâng cao chất lượng con giống; chú trọng các loài vật nuôi mới có tiềm năng, giá trị kinh tế cao, có khả năng phát triển như chim yến, cá sấu. Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại, công nghiệp, bán công nghiệp gắn với đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm.

- Về nuôi trồng thủy sản: Đối tượng chủ lực gồm con tôm (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), cua biển; nhuyễn thể (nghêu, sò,…), artemia; đối tượng có khả năng phát triển là các loại cá nước mặn, lợ, ngọt, tôm càng xanh. Khuyến khích nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết nuôi tôm công nghệ cao, siêu thâm canh, nuôi khép kín trong nhà kính, nuôi tôm sạch giữa doanh nghiệp với nông dân và một số mô hình hợp tác, liên kết sản xuất khác như cá chình, artemia...; từng bước xây dựng cơ sở tôm sạch, an toàn dịch bệnh, tiến tới xây dựng thương hiệu tôm sạch; đa dạng hóa các đối tượng nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao; thực hiện tốt chương trình giám sát vùng nuôi, công tác dự báo môi trường, dự báo dịch bệnh và công tác phòng chống dịch bệnh.

Củng cố và đẩy mạnh phát triển các cơ sở sản xuất tôm giống chất lượng cao, sạch bệnh đáp ứng nhu cầu sản xuất trong và ngoài tỉnh; từng bước xây dựng, phát triển thành trung tâm sản xuất tôm giống có quy mô lớn, chất lượng cao, có uy tín ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và cả nước. Tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản (thủy lợi, giao thông, lưới điện, chợ thủy sản đầu mối), nhất là các vùng sản xuất giống thủy sản tập trung quy mô lớn, các vùng nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao (với quy mô 30.000ha, trong đó có 500ha mặt nước nuôi theo công nghệ siêu thâm canh). Xúc tiến đầu tư xây dựng khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao về thủy sản tại xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình và xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu. Thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ để khôi phục sản xuất và giảm tổn thất sau thu hoạch thủy sản.

- Về đánh bắt, khai thác thủy sản: Tập trung ưu tiên phát triển khai thác hải sản xa bờ, thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển thủy sản để đầu tư xây dựng đội tàu đánh bắt xa bờ có công suất lớn, trang thiết bị hiện đại, có khả năng hoạt động dài ngày trên biển để nâng cao hiệu quả khai thác và giảm tổn thất sau thu hoạch; khai thác thủy sản gắn liền với bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc; tập trung khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế, có khả năng xuất khẩu như tôm, mực, bạch tuộc, cá thu, cá chim và nhóm cá nổi lớn. Tổ chức sản xuất theo tổ, đội khai thác hải sản kết hợp với các mô hình dịch vụ trên biển và thực hiện tốt công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện nghề cá hoạt động trên biển; hướng dẫn chuyển đổi một số nghề khai thác gần bờ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản sang đánh bắt xa bờ hoặc chuyển đổi ngành nghề khác. Phát triển đa dạng các dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế biển; tiếp tục đầu tư xây dựng các khu neo đậu tránh, trú bão cho tàu thuyền và xây dựng các cảng cá, bến cá; hiện đại hóa các cơ sở chế biến thủy sản.

 - Về diêm nghiệp: Ưu tiên sản xuất muối thực phẩm chất lượng cao, với công nghệ tiên tiến nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và xuất khẩu; tổ chức sản xuất muối theo quy hoạch; chuyển đổi nhanh từ phương thức sản xuất muối đen sang phương thức sản xuất muối trắng, ổn định địa bàn và diện tích sản xuất muối tập trung; chuyển đổi diện tích sản xuất muối kém hiệu quả sang nuôi artemia và nuôi trồng thủy sản; khuyến khích diêm dân áp dụng quy trình sản xuất muối chất lượng cao kết tinh trên bạt PVC. Tập trung đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng đồng muối, ưu tiên xây dựng vùng sản xuất muối ứng dụng công nghệ cao 500ha nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu (theo Quyết định số 4513/QĐ-BNN-CB ngày 21/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển sản xuất muối đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030). Nghiên cứu các sản phẩm từ đồng muối (muối, nước ót...) để đa dạng hóa sản phẩm; giữ vững chỉ dẫn địa lý, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu muối ăn Bạc Liêu trong và ngoài nước. Nhân rộng mô hình sản xuất kết hợp muối - nuôi trồng thủy sản (tôm, cua, cá kèo...) để tăng thu nhập trên đơn vị sản xuất và cải thiện đời sống diêm dân.

- Về lâm nghiệp: Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng vừa bảo tồn đa dạng sinh học vừa kết hợp du lịch sinh thái, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, nâng cao sinh kế cho người làm nghề rừng. Đẩy mạnh trồng rừng trên đất bãi bồi ven biển và trồng rừng trên các khu vực bị sạt lở ven biển, trồng rừng phía trong đê biển ở những nơi có điều kiện. Tăng cường quản lý việc trồng, chăm sóc cây xanh đô thị; vận động nhân dân trồng cây phân tán, cải tạo vườn tạp trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, góp phần nâng độ che phủ, tạo cảnh quan môi trường.

Tập trung nguồn lực đầu tư nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ về cải tiến giống cây trồng, vật nuôi, quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch, chế biến, bảo quản để tạo sự đột phá về năng suất, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích và khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước; đưa cơ giới hóa vào các lĩnh vực, các khâu từ giống, kỹ thuật canh tác, chăm sóc, nuôi trồng đến thu hoạch, bảo quản, chế biến để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng; từng ngành, từng khâu công đoạn phải có chỉ tiêu lộ trình cụ thể để phấn đấu thực hiện. Doanh nghiệp là chủ thể phối hợp với các tổ chức khoa học, HTX, khuyến nông hướng dẫn nông dẫn áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, các biện pháp canh tác, sử dụng giống, vật tư nông nghiệp tiết kiệm, nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản. Mở rộng mô hình HTX cung cấp, quản lý vật tư nông nghiệp để đảm bảo cung cấp vật tư chất lượng tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giá thành hạ, hạn chế ô nhiễm môi trường.

Tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các cơ sở thí nghiệm, thực nghiệm giống cây trồng, giống vật nuôi và giống thủy sản, phân tích chất lượng nước sinh hoạt nông thôn, xét nghiệm dịch bệnh gia súc, gia cầm, dịch bệnh thủy sản, kiểm định giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; phát triển nhanh các trung tâm thực nghiệm và chuyển giao khoa học, công nghệ ở các huyện, thị xã, thành phố; đẩy mạnh xã hội hóa công tác giống cây trồng, vật nuôi và công tác khuyến nông.

1.2- Phát triển các ngành dịch vụ, nhất là thương mại, du lịch và các dịch vụ mà tỉnh có tiềm năng

Tập trung phát triển các loại hình dịch vụ có lợi thế; đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; ưu tiên đầu tư và khuyến khích đầu tư phát triển dịch vụ du lịch, nhất là loại hình du lịch sinh thái, tín ngưỡng.

Sắp xếp, ổn định hoạt động hệ thống chợ, trung tâm thương mại, các siêu thị ở thành phố Bạc Liêu, thị xã Giá Rai và trung tâm các huyện, đặc biệt là thu hút đầu tư xây dựng thêm hệ thống chợ đầu mối, chợ thủy sản, hệ thống chợ nông thôn, các trung tâm thương mại; phát triển mạnh hệ thống bán lẻ; quan tâm, tạo điều kiện để nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm thương mại Nguyễn Kim - Bạc Liêu, Trung tâm thương mại Vingroup. Vận động nhân dân thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Khuyến khích các nhà đầu tư trong, ngoài tỉnh đầu tư xây dựng các công trình, các sản phẩm du lịch, các khu vui chơi, giải trí chất lượng; xây dựng mới và nâng cấp các nhà hàng, khách sạn theo hướng hiện đại, phù hợp với điều kiện của tỉnh; mở rộng khu du lịch Di tích lịch sử Đồng Nọc Nạng; nâng cấp và mở rộng quy mô các cơ sở văn hóa, du lịch hiện có, nhất là 6 sản phẩm du lịch cấp vùng, thu hút đầu tư và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các điểm, khu du lịch như Tắc Sậy (Hộ Phòng), Quán âm Phật đài, Lăng Cá Ông, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng tuyến ven biển... Phấn đấu trong nhiệm kỳ xây dựng 5 sản phẩm du lịch (Vườn chim Bạc Liêu, Quán âm Phật đài, Tắc Sậy, Vườn Nhãn, Điện gió) trở thành sản phẩm du lịch tiêu biểu của Đồng bằng Sông Cửu Long.

Phát triển, nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông, vận tải hàng hóa, vận tải hành khách; phát triển các loại hình du lịch văn hóa - lịch sử, lễ hội trên cơ sở giao thoa các nền văn hóa của các dân tộc sinh sống tại địa phương và một số loại hình dịch vụ chất lượng cao trong giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân... của các thành phần kinh tế. Sơ kết và tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 02 của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XIV về phát triển du lịch.

1.3- Tích cực triển khai các dự án động lực; đẩy mạnh phát triển công nghiệp và xây dựng; tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

Tích cực triển khai thực hiện quyết liệt các công trình, dự án động lực: Đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ xây dựng hoàn thành dự án Nhà máy Điện gió Bạc Liêu giai đoạn 1 (99,2MW) và giai đoạn 2 (mở rộng), với tổng công suất là 480MW. Trình xin Thủ tướng Chính phủ có chủ trương đồng ý cho các nhà đầu tư Hàn Quốc triển khai các dự án Điện gió trên phần đất bãi bồi ven biển còn lại của tỉnh; đồng thời, đề nghị Chính phủ chấp thuận đưa Trung tâm Điện lực Bạc Liêu ra khỏi quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện VII) nhằm đảm bảo môi trường phục vụ sản xuất, nuôi trồng thủy sản khu vực ven biển, nhường lại cho phát triển điện gió.

- Về công nghiệp và xây dựng: Tập trung đầu tư mở rộng quy mô và đổi mới thiết bị, công nghệ, kỹ thuật hiện đại đối với các nhà máy chế biến thủy sản để nâng cao năng suất, chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đảm bảo an toàn thực phẩm và vệ sinh môi trường nhằm phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Tích cực kêu gọi đầu tư thêm một số nhà máy chế biến thủy sản hiện đại, nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến gạo, chế biến gia súc, gia cầm; đẩy nhanh tiến độ đầu tư để sớm hoàn thành đưa vào hoạt động nhà máy chế biến cá chình tại huyện Hồng Dân. Triển khai đầu tư Cụm kinh tế Gành Hào để thu hút các nhà đầu tư về các loại hình dịch vụ kinh tế biển; kêu gọi nhà đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp theo quy định; xây dựng hoàn thành nhà máy xử lý rác thải và triển khai đầu tư nhà máy xử lý nước thải đô thị.

Chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, phục vụ sản xuất và chế biến nông sản, thủy sản và chăn nuôi; công nghiệp phục vụ giao thông, vận tải, xây dựng. Tổ chức, sắp xếp lại các ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống theo hướng nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh gắn với xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá, nhất là các mặt hàng truyền thống. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ các cơ sở sản xuất sản phẩm cơ khí phục vụ, phát triển công nghiệp cơ khí đóng và sửa chữa tàu thủy.

Khuyến khích các doanh nghiệp, nhà máy sản xuất, chế biến đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo đảm vệ sinh môi trường; đồng thời, khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp với công nghệ hiện đại, ít gây ô nhiễm môi trường, phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh. Có chính sách phù hợp để thu hút đầu tư sớm lấp đầy Khu công nghiệp Trà Kha và các cụm công nghiệp theo quy hoạch; tạo điều kiện để nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sớm đi vào hoạt động các dự án sử dụng nhiều lao động, nhất là các dự án nhà máy may mặc xuất khẩu nhằm góp phần tạo việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách và tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

- Về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, bảo đảm hiệu quả tổng hợp, tính kết nối hệ thống, nhất là hoàn chỉnh hệ thống giao thông, điện, thủy lợi, hạ tầng đô thị và hạ tầng công nghệ thông tin nhằm khai thác, phát huy đúng mức tiềm năng kinh tế của tỉnh, gắn phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và các yếu tố bảo đảm môi trường trong quy hoạch. Việc xây dựng hệ thống thủy lợi phải đảm bảo đa mục tiêu, từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đảm bảo kiểm soát mặn, tiêu úng, giữ và dẫn nước cho từng tiểu vùng. Trước hết, tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm bảo đảm tính đồng bộ, kết nối trong nội bộ ngành, liên ngành, địa phương trong tỉnh và vùng tỉnh.

Tập trung kêu gọi và triển khai đầu tư xây dựng Cảng Gành Hào (10.000 tấn) để sớm đưa vào khai thác và kịp thời phục vụ trung chuyển hàng hóa cho Cảng biển Hòn Khoai khi đi vào hoạt động. Tiếp tục đầu tư mở rộng, nâng cấp các tuyến đường về trung tâm các huyện và các xã, thị trấn; hoàn thành các tuyến đường về trung tâm xã, lộ và cầu trên tuyến đê Đông; sớm hoàn thành đường Cao Văn Lầu, cầu Giá Rai mới; hoàn thành việc xây dựng bờ kè sông Bạc Liêu (đoạn qua thành phố Bạc Liêu, từ Cầu Xáng đến Trà Kha và đoạn qua thị trấn Hòa Bình). Khởi công xây dựng cầu nối tuyến đường Quản lộ Phụng Hiệp với trung tâm xã Phong Thạnh Tây A (huyện Phước Long); hoàn thành dự án bố trí, sắp xếp ổn định di dời dân cư ra khỏi rừng phòng hộ ven biển; các dự án trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012 - 2016 và giai đoạn 2017 - 2020; các dự án chống biến đổi khí hậu. Triển khai xây dựng một số cầu quan trọng như: cầu Xóm Lung, Bạc Liêu 4 và một số tuyến giao thông mới, như: đường tỉnh ĐT 981B (Gành Hào - Hộ Phòng), đường tỉnh ĐT 979B (Xóm Lung - Cái Cùng), đường tỉnh ĐT 980 (đoạn Giá Rai đi Vĩnh Thuận, Kiên Giang), mở rộng nâng cấp đường tỉnh ĐT 978 (Cầu Sập - Ninh Quới - Ngan Dừa - Ba Đình). Đầu tư tiếp nối đường tỉnh ĐT 979 từ thị trấn Phước Long nối Quốc lộ 61B (đường Hồ Chí Minh), mở rộng nâng cấp đường liên tỉnh ĐT 976 (Bạc Liêu - Hưng Thành). Triển khai đầu tư các trạm bơm điện vừa và nhỏ phục vụ sản xuất bằng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Tập trung triển khai thực hiện đầu tư dự án cấp điện nông thôn tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 2081/QĐ-TTg ngày 8/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ để hoàn thành cơ bản các đoạn tuyến điện lưới quốc gia về các khu, cụm, tuyến dân cư, bảo đảm hầu hết các hộ dân trong tỉnh đều có điện sử dụng (tỷ lệ hộ dùng điện đạt 99,8%).

Đẩy mạnh kêu gọi, xúc tiến đầu tư các dự án tại khu vực Gành Hào, như: mở rộng Cảng cá Gành Hào đạt quy mô cảng cá loại I; xây dựng khu neo đậu tránh trú bão Gành Hào; hình thành cụm công nghiệp, khu sản xuất muối ăn xuất khẩu, khu du lịch sinh thái. Xây dựng khu neo đậu tránh trú bão kết hợp Cảng cá Nhà Mát; xây dựng khu neo đậu tránh trú bão và bến cá Cái Cùng; Xây dựng bến xe khách của tỉnh và các bến xe, bến tàu ở các huyện... Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hoàn thành các khu hành chính, đô thị mới; lấp đầy các khu Địa ốc, Hoàng Phát, Tràng An, khu dân cư phường 2, phường 5.

1.4- Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế

Tăng cường quản lý kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch. Vận dụng các cơ chế, chính sách và công cụ kinh tế một cách linh hoạt, phù hợp thực tiễn địa phương; tạo điều kiện, môi trường thuận lợi và bình dẳng để phát triển các thành phần kinh tế, phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp. Tập trung xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, thiết thực, hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước; quyết liệt trong chỉ đạo điều hành, nhất là trong lĩnh vực cải cách hành chính để tạo độ tin cậy cao đối với các thành phần kinh tế và tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện đạt mục tiêu chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.

Quan tâm chỉ đạo, quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính; thực hiện xã hội hoá khu vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.

Chỉ đạo xây dựng, bổ sung hoàn thiện và thực hiện các đề án về phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể. Tiếp tục quan tâm củng cố, nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác, HTX; tích cực chỉ đạo phát triển mô hình kinh tế trang trại, hợp tác sản xuất trong sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản; đẩy mạnh liên kết, hỗ trợ và hợp tác trong mọi lĩnh vực sản xuất, dịch vụ. Có chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể và khu vực HTX tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường. Tổ chức thực hiện tốt Luật HTX.

Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế. Nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, ít gây ô nhiễm môi trường.

1.5- Đẩy mạnh công tác thu hút đầu tư và mở rộng đối ngoại

Nâng cao năng lực điều hành và quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư. Chủ động trong công tác vận động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và viện trợ phi chính phủ (NGO). Quan tâm đúng mức việc thực hiện đầu tư theo phương thức PPP. Tăng cường quản lý, sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả và tiết kiệm.

Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác xúc tiến thương mại và đầu tư; xúc tiến các hoạt động đối ngoại, cả đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động thực hiện phương án tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và giữ vững các mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.

Mở rộng quan hệ hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước; sơ kết để trên cơ sở đó thực hiện có hiệu quả hơn quan hệ hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ; hình thành thị trường vốn, liên kết, liên doanh phát triển các ngành có lợi thế của vùng, trong đó cùng với các địa phương trong vùng thực hiện hiệu quả Đề án “Liên kết vùng Đồng bằng Sông Cửu Long phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, trái cây, thủy sản và nâng cao năng lực nông dân”. Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, dự án động lực, nhất là các dự án du lịch kết cấu hạ tầng giao thông bằng nhiều hình thức, đặc biệt ưu tiên hình thức đối tác công tư. Tiếp tục tranh thủ và mở rộng hợp tác với các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước, nhà đầu tư là người Bạc Liêu đang sinh sống ở ngoài tỉnh, ngoài nước để thu hút đầu tư một số dự án lớn có tính động lực thúc đẩy kinh tế phát triển; các dự án hạ tầng thiết yếu, ưu tiên lĩnh vực dệt may. Tích cực tạo mối quan hệ với các tập đoàn, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để huy động quỹ An sinh xã hội cho tỉnh. Tăng cường kết nối, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương trong việc quan tâm đầu tư phát triển của tỉnh.

Tiếp tục đề xuất Trung ương hỗ trợ để đầu tư vào các lĩnh vực bức xúc như: Công trình chống biến đổi khí hậu; hạ tầng giao thông về các xã, bệnh viện, cơ sở giáo dục, các thiết chế văn hóa, thể thao quan trọng; thủy lợi, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, cấp thoát nước đô thị, xử lý nước thải khu công nghiệp, chất thải đô thị và các công trình có ý nghĩa xã hội quan trọng; đi đôi với bố trí sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả và tiết kiệm.

Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất, kinh doanh; tiếp tục cải cách thủ tục đầu tư theo hướng gọn, minh bạch, công khai; tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng để sẵn sàng tiếp nhận các dự án đầu tư; ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư trên cơ sở lợi thế về phát triển kinh tế của địa phương và phù hợp với các quy định của pháp luật, góp phần nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của tỉnh. Triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Chính phủ đối với doanh nghiệp, nhất là Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là lĩnh vực sản xuất và chế biến, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao...

Khai thác và sử dụng tốt các nguồn vốn từ quỹ đất, quỹ nhà thuộc sở hữu Nhà nước. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư, quản lý thống nhất, bảo đảm các dự án đầu tư phải theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt.

1.6- Tăng cường công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình số 14/CTr-TU ngày 9/8/2013 của BCH Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 3/6/2013 của BCH Trung ương (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi sử dụng lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, chặt phá cây rừng, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu.

Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra. Tiếp tục tăng cường chỉ đạo triển khai thực hiện và tập trung rà soát, cập nhật, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện khung kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh, nhất là các nhiệm vụ, dự án thuộc nhóm ưu tiên, gắn với xây dựng quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, địa phương, ngành, lĩnh vực phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng của vùng, của tỉnh. Xây dựng và thực hiện các chương trình về giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc quản lý và phát triển rừng bền vững.

Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, nhất là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện của biến đổi khí hậu, đặc điểm sinh thái của từng vùng, từng khu vực; nâng cao hiệu quả sử dụng đất và nguồn tài nguyên sinh thái, cảnh quan, tài nguyên sinh vật; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững nguồn tài nguyên phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế - xã hội; khai thác và phát triển đúng mức, sử dụng hiệu quả năng lượng tái tạo, năng lượng mới, đặc biệt là năng lượng gió, năng lượng mặt trời; đẩy mạnh trồng cây phân tán và trồng rừng, đảm bảo nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên 14,75% diện tích tự nhiên.

Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai, nâng cao chất lượng, tính khả thi của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định. Tranh thủ sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và bố trí đủ kinh phí để thực hiện hoàn thành công tác đo đạc, lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; chỉ đạo thực hiện tốt công tác định giá đất, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm đảm bảo an sinh xã hội; kiểm soát chặt chẽ việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư. Tăng cường quản lý chặt và khai thác, sử dụng hợp lý nguồn cát biển, các mỏ sét, tài nguyên biển, tài nguyên rừng, tài nguyên nước, đặc biệt là nguồn nước ngầm. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động xả thải vào nguồn nước, tiến hành lập quy hoạch mạng lưới quan trắc nước ngầm của tỉnh.

Tăng cường phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường và phục hồi, cải thiện chất lượng môi trường; đẩy mạnh cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đánh giá tác động môi trường đối với các quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường, bản cam kết bảo vệ môi trường đối với các dự án đầu tư. Đẩy nhanh tiến độ xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh. Ưu tiên khắc phục, cải tạo đoạn sông, hồ, ao, kênh, mương đã bị ô nhiễm môi trường, nhất là trong các đô thị, khu dân cư. Quan tâm cải thiện chất lượng môi trường sống, cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh môi trường cho người dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Đẩy mạnh hợp tác, đa dạng hóa nguồn lực tài chính và tập trung đầu tư có hiệu quả. Tăng cường tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ ODA và các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước, kết hợp với nguồn ngân sách nhà nước đầu tư ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, nhất là các công trình, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái; đầu tư cải tiến công nghệ tạo ra sản phẩm mới, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, thân thiện với môi trường. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình thực hiện chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, gắn với Chương trình phát triển kinh tế biển của tỉnh.

1.7- Tập trung xây dựng nông thôn mới; phát triển hài hòa giữa đô thị và nông thôn

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 01 của Tỉnh ủy (khóa XIV) về xây dựng thành phố Bạc Liêu trở thành thành phố xanh, sạch, đẹp, văn minh; Nghị quyết 04, 05 của Tỉnh ủy về phát triển vùng kinh tế phía Bắc và vùng kinh tế phía Nam Quốc lộ 1A, đồng thời xây dựng nghị quyết chuyên đề về nông thôn mới.

Nhất quán quan điểm đầu tư cho cả đô thị và nông thôn, phát triển hài hòa giữa đô thị và nông thôn, đầu tư phát triển cả kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trên tinh thần đó, xây dựng huyện Vĩnh Lợi đạt chuẩn huyện nông thôn mới; xây dựng thị xã Giá Rai theo hướng hiện đại, văn minh và là thị xã vệ tinh của tỉnh; xây dựng, hoàn chỉnh hạ tầng khu hành chính và trụ sở làm việc huyện Đông Hải, Vĩnh Lợi và trụ sở Huyện ủy Hòa Bình. Xây dựng trung tâm các huyện từng bước theo hướng xanh - sạch - đẹp, văn minh; tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng trung tâm các huyện theo mô hình đô thị (quy hoạch nhà ở dân cư, hệ thống cấp thoát nước, cây xanh, vỉa hè, hệ thống điện chiếu sáng phục vụ tốt cho yêu cầu sinh hoạt và mỹ quan đô thị). Nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới giao thông nội ô thành phố Bạc Liêu; nâng cấp các tiêu chí đô thị loại II đã đạt được, phấn đấu đạt các tiêu chí chưa đạt; tiếp tục xây dựng thành phố theo hướng xanh, sạch, đẹp, văn minh và từng bước hiện đại. Hoàn thành các dự án dân cư đang triển khai theo quy hoạch và hình thành khu hành chính - kinh tế - vui chơi giải trí mới của thành phố Bạc Liêu phù hợp với điều kiện cho phép. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các khu chức năng trong nội ô thành phố; thiết kế kiến trúc đô thị hai bên bờ sông Bạc Liêu (đoạn nội ô) để xây dựng nơi đây là điểm nhấn cảnh quan du lịch của tỉnh (cả ban ngày lẫn ban đêm).

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với đẩy mạnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, ưu tiên đầu tư nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là điện, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, trường học, trạm y tế. Dành nguồn lực thích đáng để xây dựng nông thôn mới ngoài sự hỗ trợ của Trung ương. Tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hệ thống giao thông nông thôn; đẩy mạnh vận động nhân dân chủ động thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới không cần vốn; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn để từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về đời sống giữa người dân nông thôn và thành thị.

Xây dựng nông thôn mới gắn với quá trình đô thị hoá một cách hợp lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn, đô thị, phối hợp chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ đô thị. Xác định vai trò hạt nhân của doanh nghiệp trong nông nghiệp; xây dựng liên kết chuỗi hộ gia đình, trang trại, hình thành các vùng nguyên liệu, đẩy mạnh liên kết nông - công nghiệp. Tổ chức lại hoạt động sản xuất của các làng nghề, hoạt động dịch vụ ở nông thôn; tăng cường quảng bá, giới thiệu, tìm đầu ra cho các sản phẩm, thực phẩm chế biến từ nông sản nhằm tăng thu nhập, tạo việc làm và góp phần làm phong phú sản phẩm dịch vụ, hàng hoá của tỉnh.

2- Tập trung chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; đẩy mạnh phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

2.1- Về giáo dục và đào tạo

Tiếp tục thực hiện tốt Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học chuyển từ tiếp cận nội dung giáo dục sang tiếp cận năng lực của người học, dạy học phân hóa, nhằm khắc phục lối dạy học bình quân dàn đều để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tạo được sự chuyển biến trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân.

Tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Tập trung tổ chức triển khai thực hiện tốt công tác kiểm định chất lượng giáo dục ở tất cả các cơ sở giáo dục, hệ thống trường học. Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế.

Quan tâm đầu tư cơ sở, vật chất trường lớp, thiết bị dạy học theo hướng đạt chuẩn quốc gia. Triển khai thực hiện Quyết định số 1625 ngày 11/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2015 - 2020.

Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; củng cố, nâng cao mức độ đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, tiểu học trong độ tuổi, trung học cơ sở và chất lượng giáo dục thường xuyên. Khuyến khích đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học, nhất là hệ mầm non, mẫu giáo và phổ thông; đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Khuyến khích các trường đại học, cao đẳng liên kết đào tạo với các trường, cơ sở đào tạo có uy tín.

Tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Thực hiện tốt chủ trương của BTV Tỉnh ủy về đào tạo nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị và chính sách thu hút, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài, khuyến khích tài năng, tài năng trẻ và nữ phát triển ở địa phương. Song song đó, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp chất lượng cao, nhân lực cho du lịch; phát triển và nhân rộng các mô hình tạo việc làm; xây dựng đề án và kế hoạch đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động cho các khu, cụm công nghiệp, các hình thức dạy nghề trình độ cao, dạy nghề cho lao động nông thôn.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn và đổi mới để sắp xếp và mở rộng hợp lý quy mô ngành nghề, nâng cao chất lượng đào tạo và chấn chỉnh hoạt động liên kết đào tạo. Nâng dần tỷ lệ lao động được đào tạo tại chỗ; gắn đào tạo với thực tế nhu cầu sử dụng; từng bước xây dựng Bạc Liêu thành một trong những trung tâm đào tạo có sức thu hút cả vùng trên một số chuyên ngành. Phát huy vai trò của Trường đại học Bạc Liêu và các trường cao đẳng trên địa bàn trong việc đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học.

2.2- Về khoa học, công nghệ

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) và Chỉ thị số 22 của BTV Tỉnh ủy (khóa XIV) về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Phát triển khoa học và công nghệ thật sự là động lực cho sự phát triển của tỉnh.

Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; đổi mới chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ; kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.

Tăng cường ứng dụng và triển khai công nghệ, ưu tiên ứng dụng một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thông tin trong các ngành, thế mạnh của tỉnh; lấy doanh nghiệp làm trọng tâm để đầu tư hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất và chất lượng, tính cạnh tranh. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cần phải được xây dựng trên cơ sở khoa học để bảo đảm tính khả thi và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Đẩy mạnh hợp tác về khoa học và công nghệ với các viện, trung tâm khoa học đầu ngành trong và ngoài nước; chú trọng phát triển thị trường khoa học và công nghệ kết hợp với việc tuyên truyền kiến thức pháp luật và sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền các cấp, xem việc phát triển khoa học và công nghệ là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; phát huy tốt vai trò tư vấn, phản biện, giám định của Liên hiệp các hội Khoa học - kỹ thuật tỉnh.

 2.3- Về phát triển văn hóa, xây dựng con người

Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 9 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Tăng cường và chú trọng yếu tố văn hóa trong lãnh đạo, điều hành và đường hướng phát triển của tỉnh. Xây dựng tiêu chí về con người Bạc Liêu phù hợp với truyền thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9; chăm lo xây dựng con người, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, lòng tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc của mọi người dân trong tỉnh...

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng ấp, khóm, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện tốt chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học phải thật sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người. Xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn và giữa các giai tầng xã hội.

Triển khai xây dựng Sân vận động trung tâm, Bảo tàng tỉnh; khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hóa, thể thao hiện có để phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong tỉnh và khách du lịch; tập trung hoàn thiện để đưa vào sử dụng Trung tâm triển lãm văn hóa, nghệ thuật tỉnh. Coi trọng việc bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa; phát huy có hiệu quả nghệ thuật đờn ca tài tử, vừa góp phần bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại, vừa góp phần phát triển kinh tế du lịch; có chính sách khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các văn nghệ sĩ sáng tác và phổ biến ngày càng nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị để phục vụ nhân dân. Tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa; thường xuyên tổ chức và đăng cai tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao quốc tế, quốc gia và khu vực; tích cực đấu tranh, phê phán và ngăn chặn sự xâm nhập lối sống, văn hóa bên ngoài không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý lĩnh vực văn hóa kịp thời ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa. Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản; kịp thời tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, và tình hình trong tỉnh đến các tầng lớp nhân dân; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế quyền tự do sáng tác. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ làm công tác báo chí của tỉnh.

Mức đầu tư cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.

Tiếp tục xây dựng, phát triển phong trào thể dục - thể thao ở cơ sở; quan tâm phát triển thể thao thành tích cao; xây dựng thêm các đội tuyển và đội năng khiếu cấp tỉnh; tiếp tục cải thiện thứ hạng của Bạc Liêu trong bảng tổng xếp hạng về thể thao của khu vực và toàn quốc; nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

2.4- Tập trung giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động; đẩy mạnh công tác giảm nghèo, bảo đảm  an sinh xã hội, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân

Thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; thực hiện tốt chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng lao động, phấn đấu hằng năm giải quyết việc làm cho 18.000 lao động. Thực hiện tốt chính sách tiền lương, tiền công cho người lao động. Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động để tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và nguồn kiều hối về cho tỉnh; đồng thời, tập trung thu hút các dự án đầu tư sử dụng nhiều lao động để tạo thêm việc làm. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, các tệ nạn xã hội, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững.

Đẩy mạnh các giải pháp tăng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh theo lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh các giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội gắn với giảm nghèo bền vững; đặc biệt quan tâm chăm lo các gia đình chính sách, người có công và đồng bào dân tộc thiểu số; đảm bảo mức sống cho gia đình chính sách, người có công với cách mạng và các đối tượng chính sách cao hơn mức trung bình của dân cư nơi cư trú.

Thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả các chương trình giảm nghèo; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các chính sách trợ giúp về đất đai, tín dụng, dạy nghề, khuyến công, khuyến nông - lâm - ngư và tiêu thụ sản phẩm; xây dựng các mô hình giảm nghèo. Tạo mọi điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo chủ động phát huy nội lực cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng phấn đấu vươn lên thoát nghèo bền vững. Tăng cường vận động, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp... để tạo nguồn lực thực hiện công tác an sinh xã hội và giảm nghèo.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về y tế; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành một số hạng mục chính của Bệnh viện Đa khoa tỉnh và các bệnh viện chuyên khoa (lao, tâm thần, y học cổ truyền); nâng cấp trang thiết bị y tế dự án Bệnh viện Đa khoa Bạc Liêu và trang thiết bị y tế bệnh viện đa khoa tuyến huyện (vốn ODA và các nguồn hợp pháp khác); xây dựng các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, từng bước khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện. Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để các bệnh viện tư nhân đẩy nhanh tiến độ xây dựng các bệnh viện chuyên khoa. Có chính sách hợp lý trong đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ y tế. Củng cố và nâng cao năng lực, chất lượng y tế dự phòng; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm...

Thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Quan tâm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.

3- Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành Nội chính, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là nòng cốt.

Tiếp tục thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương về bảo đảm an ninh quốc gia; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nghị quyết của Tỉnh ủy về xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh; giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; bảo đảm giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. Coi trọng giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; nâng cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức phòng chống những biểu hiện “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”; xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị, không để xảy ra các tình huống bất ngờ. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.

Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang, bảo đảm công tác hậu cần kỹ thuật; làm tốt công tác huấn luyện, diễn tập, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; tổ chức diễn tập theo đúng tinh thần Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị và Nghị định 152 của Chính phủ; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ bảo đảm chất lượng. Chỉ đạo chặt chẽ công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hàng năm. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; tiếp tục quan tâm thực hiện tốt chính sách về nhà ở, đất ở cho cán bộ, chiến sĩ còn nhiều khó khăn thuộc lực lượng vũ trang.

Tăng cường công tác bảo đảm an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Tiếp tục thực hiện tốt Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy và buôn bán người; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, kiềm chế, không để các loại tội phạm, nhất là các băng nhóm tội phạm theo kiểu xã hội đen, bảo kê, tội phạm công nghệ cao và các tệ nạn xã hội gia tăng. Thực hiện tốt công tác quản lý hành chính về an ninh trật tự, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị.

Xây dựng thực lực chính trị trên địa bàn biên phòng, bảo vệ vững chắc an ninh vùng biển và khu vực ven biển. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 49, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tăng cường củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật thật trong sạch vững mạnh.

Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đối với các cơ quan trong khối nội chính; chủ động giải quyết các vướng mắc giữa các cơ quan tố tụng để đưa các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ, đảng viên ra xét xử dứt điểm; thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với tổ chức, cá nhân người đứng đầu trong việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết Trung ương 3 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; hạn chế tối đa việc tổ chức các ngày kỷ niệm, lễ hội mang tính phô trương, hình thức, lãng phí, tốn kém.

Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử và công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm dân chủ, khách quan, không kết tội oan, bỏ lọt tội phạm, hạn chế tối đa án sai, án sửa và bảo đảm trách nhiệm bồi thường. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật; quan tâm đầu tư trang bị cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp.

Tập trung giải quyết các khiếu kiện tồn đọng, đặc biệt là các vụ khiếu kiện đông người; tiếp tục đổi mới các chính sách đền bù, hỗ trợ tái định cư, đảm bảo lợi ích chính đáng của người dân, của cộng đồng và yêu cầu phát triển của tỉnh.

III- TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CỦNG CỐ VÀ PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

1- Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ

Tăng cường công tác chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn đảng bộ và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quy định của Đảng; nâng cao năng lực và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo của đảng bộ, bản lĩnh của các tổ chức đảng và đảng viên. Thực hiện nghiêm túc công tác tự phê bình, phê bình, chất vấn trong Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp. Vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy và mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên.

Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh mạnh mẽ với những quan điểm sai trái, phai nhạt lý tưởng; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên; đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Quan tâm tổng kết thực tiễn việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng trên các lĩnh vực để phục vụ cho việc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng. Kịp thời triển khai, quán triệt các chủ trương, nghị quyết của tỉnh cho cán bộ, đảng viên và tuyên truyền, phổ biến đến các tầng lớp nhân dân phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả, đặc biệt quan tâm đối với những chủ trương mới, những chủ trương có liên quan đến quyền lợi của người dân, lợi ích công cộng, những chủ trương có liên quan đến những vấn đề nhạy cảm. Thực hiện có nền nếp việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Tăng cường rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đi đôi với thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 07 và Kết luận số 33 của BTV Tỉnh ủy; chỉ đạo việc cụ thể hóa và thực hiện tốt chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên; thực hiện tốt 12 chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nêu trong Chỉ thị 07 và Kết luận 33 của BTV Tỉnh ủy, đưa nội dung kiểm điểm việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác vào sinh hoạt chi bộ hàng tháng. Đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng đảng: “Xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Đặc biệt coi trọng việc nêu gương của lãnh đạo các cấp, các ngành; phát huy ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên làm cơ sở cho việc mở rộng thực hiện các nội dung này một cách thiết thực đến các tầng lớp nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ. Xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc; xây dựng đạo đức, lối sống tự trọng, trung thực, khiêm tốn, giản dị, nhân ái trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong tỉnh.

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc và chức năng nhiệm vụ của cấp ủy, BTV, thường trực cấp ủy các cấp theo đúng quy định của Trung ương; trong đó xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Thực hiện nghiêm túc chính sách tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị theo quy định của Đảng.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Cấp ủy các xã, phường, thị trấn phải sát dân, gần dân, quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc của dân. Chú trọng đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy và chi bộ; tất cả các cấp ủy phải có quy chế và làm việc theo quy chế; phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể đi đôi với đề cao trách nhiệm cá nhân. Quan tâm thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển đảng viên; chú ý phát triển đảng viên là những người tiêu biểu, ưu tú và có uy tín trong các thành phần, tầng lớp dân cư; trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo...

Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; xây dựng chuẩn mực văn hóa, đạo đức trong thực thi công vụ. Thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ hằng năm và đột xuất theo hướng công khai, minh bạch, khách quan, lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu. Bố trí đúng cán bộ theo năng lực, sở trường; tôn vinh kịp thời những cán bộ có đạo đức, có tài, có công; mạnh dạn đề bạt vượt cấp đối với những cán bộ trẻ có năng lực, đạo đức, có triển vọng phát triển; khuyến khích những cán bộ có sáng kiến hay, cách làm có hiệu quả; rà soát, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, không đáp ứng được yêu cầu công việc; không đủ năng lực, phẩm chất, nói không đi đôi với làm, kém uy tín đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tập trung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp; cán bộ khoa học - công nghệ và văn hóa nghệ thuật. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ quan điểm đường lối, nguyên tắc tổ chức, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và bảo vệ cán bộ, đảng viên; chống mọi biểu hiện cơ hội chính trị, bè phái gây mất đoàn kết. Xây dựng quy định cụ thể để ngăn ngừa những vi phạm thường gặp của đảng viên.

Các cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường trách nhiệm, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát nhằm xây dựng đảng bộ ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý, điều hành của chính quyền; đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống  trong cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng.

Triển khai, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến và thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng, của cấp ủy các cấp về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, việc thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, rèn luyện phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên; việc chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc thực hiện công tác cán bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan quản lý nhà nước, MTTQ và các đoàn thể trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra về phẩm chất chính trị vững vàng, có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ tốt, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Đổi mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Tập hợp vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh, sự sáng tạo của nhân dân trong các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh và từng địa phương, đơn vị. Kịp thời cụ thể hóa các chủ trương của Đảng thành các chính sách phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Quan tâm chỉ đạo, giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và các yêu cầu, khiếu nại của công dân.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Xử lý nghiêm các đối tượng tham nhũng và những người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời có quy định trách nhiệm của cơ quan Đảng, Nhà nước việc bảo vệ người tố cáo đúng và xử lý những người tố cáo gian, tôn vinh những tấm gương liêm chính để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong công tác kiểm tra, thanh tra; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương, đơn vị; phát huy vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp ủy. Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của các cấp ủy theo hướng sâu sát, cụ thể, toàn diện. Lãnh đạo toàn diện nhưng chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm và kiên trì thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ đã đề ra; đổi mới mạnh mẽ và nâng cao năng lực của cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo trong lĩnh vực kinh tế.

Quan tâm đúng mức công tác xây dựng đảng, nhất là với công tác cán bộ; tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước, trước hết là với UBND các cấp; thường xuyên sâu sát cơ sở, phát huy dân chủ và tính chủ động của cơ sở; chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị các cấp.

Coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị. Đổi mới cách thức ra nghị quyết theo hướng cụ thể, ngắn gọn, khả thi; gắn với cân đối nguồn lực và bảo đảm triển khai hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm và thời gian hoàn thành nhiệm vụ ghi trong nghị quyết; thực hiện cải cách hành chính trong hoạt động của các cấp ủy đảng. Giảm bớt hội họp, tăng cường đi thực tế ở cơ sở, xây dựng chế độ làm việc theo chương trình, kế hoạch, quy chế, nói đi đôi với làm...

Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; thực hiện tốt quy chế chất vấn trong Đảng. Mỗi thành viên BCH, BTV cấp ủy các cấp vừa thực hiện thật tốt nhiệm vụ, lĩnh vực được phân công, vừa góp phần tích cực, hiệu quả vào sự lãnh đạo chung của BCH, BTV cấp ủy.

2- Tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền

Xây dựng HĐND các cấp bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, cơ cấu, số lượng phù hợp theo hướng tăng số đại biểu hoạt động chuyên trách cho thường trực, các ban của HĐND và đại biểu HĐND. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động để HĐND các cấp thực hiện tốt vai trò cơ quan đại biểu của cử tri, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; thực hiện tốt chức năng giám sát, tăng cường tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của dân. Kịp thời phát hiện, điều chỉnh, bổ sung chủ trương, chính sách không phù hợp; đôn đốc việc thực hiện và chấn chỉnh những việc làm trái chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước của các cơ quan quản lý, điều hành ở địa phương.

Kiện toàn và sắp xếp lại bộ máy quản lý Nhà nước theo hướng tinh, gọn, hiệu quả; phân cấp, phân quyền, ủy quyền đúng luật định, phù hợp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng loại hình chính quyền ở địa phương. Coi trọng việc tuyển chọn, sắp xếp, củng cố, thay thế... nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức là khâu đột phá trong công tác xây dựng bộ máy chính quyền các cấp trong tỉnh. Thực hiện thường xuyên việc giám sát, thanh tra công vụ để phát hiện những sai phạm, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức và các cơ quan công quyền; phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ cương, pháp luật.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tiếp tục rà soát, cải tiến các thủ tục, quy trình đầu tư các dự án theo hướng đơn giản, rút ngắn thời gian... nhằm tạo môi trường thuận lợi cả về cơ chế, chính sách và cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Mở rộng hoạt động các loại hình dịch vụ công để phục vụ nhân dân tốt hơn.

Tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính Nhà nước từ tỉnh đến cơ sở; tăng cường hội nghị trực tuyến; nâng cao chất lượng thông tin cổng thông tin điện tử. Phấn đấu đưa Bạc Liêu trở thành tỉnh mạnh về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, quản lý.

Thường xuyên xây dựng, củng cố nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở, nhất là việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở; giữ gìn tốt mối quan hệ với nhân dân.

3- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động MTTQ, các đoàn thể; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với Mặt trận và các đoàn thể; nâng cao hơn nữa vai trò công tác dân vận của hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.

Phát huy vai trò của MTTQ, các đoàn thể trong công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy, động viên mọi tiềm lực của nhân dân thực hiện các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện tốt các nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, chính sách của tỉnh; phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội và chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể theo hướng bám sát lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và phục vụ thiết thực nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Gắn chặt với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tham gia xây dựng nông thôn mới và thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể thật sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện, bồi dưỡng giác ngộ lý tưởng cách mạng cho thanh, thiếu niên bằng nhiều hình thức phong phú, thiết thực; đào tạo, bồi dưỡng thanh niên xứng đáng là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Kịp thời đấu tranh, phê phán những biểu hiện lệch lạc; chống lối sống thực dụng trong các tầng lớp thanh niên.

Xây dựng, phát huy sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy mạnh mẽ, hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và phát triển quê hương; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Bạc Liêu trong nước và nước ngoài, đồng thời tăng cường vận động, tạo mọi điều kiện thuận lợi để kiều bào người Bạc Liêu ở nước ngoài về đóng góp xây dựng tỉnh nhà; kiên quyết đấu tranh chống lại các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước.

Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tăng cường sự đối thoại của các cấp ủy đảng, chính quyền với nhân dân; thường xuyên lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc, yêu cầu chính đáng của nhân dân; cán bộ, đảng viên gương mẫu trước nhân dân chú trọng tập hợp, vận động, phát huy năng lực sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân. Tạo điều kiện để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Tôn trọng, tin tưởng lắng nghe những ý kiến khác.

Xây dựng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Quan tâm xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; chăm lo cải thiện cuộc sống vật chất của người dân nông thôn, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách giảm nghèo; từng bước thu hẹp khoảng cách về cuộc sống giữa cư dân thành thị và nông thôn. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để trí thức nghiên cứu, sáng tạo, tham gia tích cực vào việc tư vấn, phản biện, giám định xã hội trong các chủ trương, chính sách và dự án kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Quan tâm, tạo điều kiện để đội ngũ doanh nhân phát huy tiềm năng và vai trò tích cực trong phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo việc làm, thu nhập cho người lao động và đóng góp tích cực vào sự phát triển của tỉnh. Chăm lo thiết thực cho đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ; tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội. Phát huy truyền thống và vai trò của cựu chiến binh trong xây dựng và phát triển tỉnh nhà, nhất là trong công tác giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ và tham gia xây dựng đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi có cuộc sống vui tươi, khỏe mạnh, hạnh phúc; phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của người cao tuổi trong xã hội và gia đình; quan tâm giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.

Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đồng thời đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Tăng cường vận động chức sắc các tôn giáo, đồng bào dân tộc và đồng bào có đạo, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức thực hiện nghĩa vụ công dân; sống tốt đời, đẹp đạo. Quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc và công tác tôn giáo.

IV- NHỮNG NHIỆM VỤ CẦN TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO TẠO CHUYỂN BIẾN RÕ NÉT TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XV

Kế thừa, phát huy đường hướng lãnh đạo, chỉ đạo và kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo chuyển biến mạnh mẽ những nhiệm vụ trọng tâm sau:

1- Tập trung triển khai quyết liệt các chương trình, dự án kinh tế động lực như: Các dự án Nhà máy Điện gió ven biển Bạc Liêu; Cảng biển Gành Hào, các cảng, bến cá, cụm kinh tế kỹ thuật Gành Hào; các nhà máy may mặc xuất khẩu; các nhà máy chế biến nông, thủy sản xuất khẩu; giữ vững sản lượng Nhà máy Bia Sài Gòn; lấp đầy Khu công nghiệp Trà Kha, triển khai Khu công nghiệp Láng Trâm.

2- Xây dựng vùng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao, đề xuất Chính phủ đưa vào quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và hình thành một số vùng nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kín. Phấn đấu hoàn thành hạ tầng kỹ thuật các khu nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp theo quy hoạch; phát triển mạnh nuôi tôm sinh thái kết hợp với trồng và bảo vệ rừng khu vực ven biển của tỉnh. Triển khai xây dựng nhiều cánh đồng lớn gắn với bao tiêu sản phẩm và chế biến gạo xuất khẩu; hình thành nhiều “doanh nghiệp nông sản” ứng dụng công nghệ cao và các trang trại.

3- Phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; mở rộng quy mô, đầu tư nâng cấp các cơ sở du lịch hiện có và triển khai mới các dự án về du lịch, dịch vụ, thương mại, khách sạn; hình thành thêm nhiều sản phẩm du lịch cấp vùng; quy hoạch và xây dựng mới các khu văn hóa, giải trí, thể thao theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu du khách trong và ngoài nước.

4- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; xây dựng huyện Phước Long trở thành huyện kiểu mẫu về nông thôn mới; xây dựng huyện Vĩnh Lợi là huyện thứ hai của tỉnh hoàn thành tiêu chí huyện nông thôn mới. Xây dựng thành phố Bạc Liêu từng bước trở thành thành phố xanh, sạch, đẹp và văn minh và từng bước hiện đại; thành phố du lịch; trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật đờn ca tài tử. Xây dựng thị xã Giá Rai trở thành trung tâm kinh tế, thương mại khu vực và là đô thị vệ tinh của tỉnh. Xây dựng huyện Đông Hải từng bước trở thành huyện trọng điểm về kinh tế biển, phấn đấu để từng bước đạt các tiêu chí nâng lên thị xã.

5- Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, tập trung vào các tuyến trọng yếu đã được đưa vào quy hoạch theo Quyết định 344; mở rộng đường tỉnh ĐT 978 (Cầu Sập - Ninh Quới - Ba Đình); xây dựng đường tỉnh ĐT 981 (Hộ Phòng - Gành Hào), đường tỉnh ĐT 980 (đoạn Giá Rai - Phó Sinh - Cạnh Đền - Vĩnh Thuận), đường tỉnh ĐT 981 (Hộ Phòng - Chủ Chí - Chợ Hội); đường về trung tâm các xã; nâng cấp, cải tạo các đường và kênh trong nội ô thành phố; nâng cấp và đầu tư đồng bộ các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện và trạm y tế xã; xúc tiến đẩy mạnh tiến độ xây dựng các bệnh viện tư nhân; hoàn thành hệ thống điện sinh hoạt nông thôn.

6- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh; gắn với giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động. Xây dựng Trường đại học Bạc Liêu cơ sở 2; Trường cao đẳng Kinh tế; hình thành trường quốc tế ngoại ngữ; xây dựng các trường phổ thông chất lượng cao.

7- Phát huy nhân tố con người, đề cao văn hóa, đạo đức trong lãnh đạo, điều hành, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; xây dựng Bạc Liêu là địa phương mến khách, con người thân thiện, nghĩa tình.

8- Tiếp tục thực hiện tốt công tác chăm lo gia đình chính sách và người có công, công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Giải quyết cơ bản các yêu cầu, khiếu nại tồn đọng của công dân. Quan tâm thực hiện chính sách nhà ở, đất ở cho gia đình chính sách, cán bộ, công chức, người nghèo.

9- Chú trọng nâng cao tâm thế hội nhập, tăng cường đối ngoại, thu hút tối đa ngoại lực, phát huy tối đa nội lực; đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư; tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp và công dân.

10- Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn - xã hội trong mọi tình huống.

11- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tập trung bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất và uy tín; toàn tâm, toàn ý; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, ngang tầm nhiệm vụ được giao.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA XIV

 

PHỤ LỤC

(53 CHÚ THÍCH)

(1) Có 7 chỉ tiêu vượt: GRDP bình quân đầu người là 43,67 triệu đồng (chỉ tiêu NQ là 38,862 triệu đồng); Kim ngạch xuất khẩu đạt 447,5 triệu USD (chỉ tiêu NQ là 380 triệu USD); Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,06% (chỉ tiêu NQ là 1,12%); Giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm là 3,15% (chỉ tiêu NQ là 2 - 3%); Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 46,30% (chỉ tiêu NQ là 45%); Giải quyết việc làm mới cho lao động trong độ tuổi hàng năm là 20.741 lao động (chỉ tiêu NQ là 13.500 lao động); Tỷ lệ hộ dùng nước sạch là 68% (chỉ tiêu NQ là 65%). Và 6 chỉ tiêu đạt: Giảm tỷ lệ trẻ em dưới năm tuổi suy dinh dưỡng đạt 14%; Số bác sĩ/vạn dân đạt 7,5 bác sĩ; Năm 2012 có 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 100%; Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 98%; Số xã đạt chuẩn quốc gia về xây dựng nông thôn mới đạt 10 xã; Xây dựng thành phố Bạc Liêu đạt tiêu chuẩn đô thị loại II (năm 2014), hoàn thiện các tiêu chí đô thị loại IV thị trấn Hộ Phòng và Giá Rai để nâng thành thị xã vào năm 2015.

(2) 8 chỉ tiêu gần đạt và chưa đạt: Tốc độ tăng trưởng kinh tế là 12,1% (chỉ tiêu NQ là 13,5%); Cơ cấu giá trị theo ngành kinh tế: (1) Nông, lâm, ngư nghiệp là 47,46% (chỉ tiêu NQ là 36,40%), (2) Công nghiệp, xây dựng là 25,44% (chỉ tiêu NQ là 31,70%), (3) Thương mại dịch vụ là 27,10% (chỉ tiêu NQ là 31,90%); Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm là 10,95% (chỉ tiêu NQ là 16%); Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 10.810 tỷ đồng (chỉ tiêu NQ là 13.450 tỷ đồng); Số giường bệnh/vạn dân là 20,55 giường (chỉ tiêu NQ là 25 giường); Tỷ lệ thu gom rác thải tập trung là 75% (chỉ tiêu NQ là 80%); Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất là 44% (chỉ tiêu NQ là 100%); Các khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải và chất thải đạt chuẩn chưa có.

(3) GRDP (theo giá so sánh năm 2010) năm 2014 là 20.440 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 5,22%; ước thực hiện năm 2015 là 21.544 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 5,4%, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 5,32%.

(4) (Tính theo giá so sánh năm 2010) giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 23.553 tỷ đồng năm 2010 lên 26.857 tỷ đồng năm 2014, ước năm 2015 đạt 27.899 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 3,44%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng từ 10.855,57 tỷ đồng năm 2010 lên 15.463 tỷ đồng năm 2014, ước năm 2015 đạt 16.824 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 9,16%/năm. Giá trị sản xuất dịch vụ tăng từ 9.612,68 tỷ đồng năm 2010 lên 12.284 tỷ đồng năm 2014, ước thực hiện năm 2015 đạt 13.102 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 6,39%/năm.

(5) Hiện tại, toàn tỉnh có 490 xí nghiệp, xưởng sản xuất, cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ; 33 cơ sở, nhà máy chế biến thủy sản được đầu tư công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm; tổng công suất chế biến 100.000 tấn/năm; ước thực hiện năm 2015 sản lượng thủy sản chế biến đạt 59.739 tấn; kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 425 triệu USD, tăng 144,25% so với năm 2010; góp phần giải quyết việc làm cho trên 10.000 lao động của tỉnh và duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) ở mức khá cao, ước năm 2015 đạt 7.640,28 tỷ đồng (tăng hơn 2 lần so năm 2010), tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 16,13%/ năm, (kế hoạch 5 năm đề ra đến năm 2015 là 17,9%/năm).

(6) Đến nay, đã có 9.510ha nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp hoàn thành việc xây dựng kết cấu hạ tầng theo tiêu chuẩn (trong đó thành phố Bạc Liêu (830ha); huyện Hòa Bình 4.580ha; huyện Đông Hải 4.100ha); tổng vốn đầu tư 156,63 tỷ đồng; số diện tích còn lại đang tích cực triển khai công tác chuẩn bị đầu tư.

(7) Toàn tỉnh hiện có hơn 3.000ha rừng đang được giao khoán cho các hộ dân quản lý, bảo vệ kết hợp với nuôi tôm sinh thái. Qua đó, đã tạo việc làm cho một bộ phận người lao động; thu nhập hàng năm ổn định (trên 30 triệu đồng/năm/hộ), đời sống đa số người dân nhận đất rừng được cải thiện; rừng được bảo vệ, phát triển khá tốt.

(8) Phương tiện tàu cá năm 2015 có 1.425 phương tiện (tăng 272 phương tiện so năm 2010); tổng công suất tàu cá năm 2015 đạt 197.000 CV (tăng 71.130 CV so năm 2010).

(9) Nhà máy chế biến gạo xuất khẩu do Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang đầu tư tại huyện Hồng Dân; đến nay đã có hơn 600 hộ dân ký hợp đồng cung ứng nguyên liệu cho nhà máy, với diện tích 8.458ha; nông dân còn tham gia mua 28.000 cổ phiếu, với mệnh giá 75.000 đồng/cổ phiếu.

(10) Quy trình sản xuất giống cá thát lát cườm, tôm càng xanh; thử nghiệm nuôi cá kèo thâm canh; nuôi cá rô đồng toàn cái; sản xuất tôm sú sạch bệnh bằng phương pháp lọc sinh học tuần hoàn sử dụng Ozon và chế phẩm vi sinh; thực nghiệm ương cá chình bông trong môi trường nước ngọt và nước lợ; mô hình tôm sú - cua biển; nuôi sò huyết trong ao lắng; mô hình trồng nấm rơm, rau an toàn, măng tây, ngò rí, hẹ; áp dụng quy trình nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh; xây dựng được 4 điểm nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh đạt chứng nhận ASC (tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của WWF). Thực hiện mô hình sản xuất muối trắng chất lượng cao bằng phương pháp trải bạt trên nền sân kết tinh.

(11) Gạo Một bụi đỏ Hồng Dân, muối Bạc Liêu; đang phát triển Thanh nhãn Bạc Liêu, gạo Tài nguyên Vĩnh Lợi; xây dựng nhãn hiệu tập thể: Ngò rí Bạc Liêu, gạo Tài nguyên Vĩnh Lợi, tôm và cua giống Gành Hào.

(12) Công ty TNHH MTV Hải Nguyên (quy mô 60ha, hiện đang sản xuất 15ha, trong đó có 5ha nuôi trong nhà kính, năng suất từ 150 - 200 tấn/3 vụ/năm); Tập đoàn Việt Úc đang triển khai dự án nuôi tôm thẻ siêu thâm canh với quy mô 50ha; Công ty TNHH SX & TM Trúc Anh nuôi tôm thâm canh (9ha), trong đó có 3ha nuôi siêu thâm canh; mô hình tôm sinh thái đạt chuẩn GlobalGap với diện tích 80ha của Công ty TNHH MTV chế biến thủy sản Thiên Phú;

(13) Tổng số diện tích được quy hoạch 48.850ha (trong đó vùng nuôi trồng thủy sản 15.000ha; vùng sản xuất lúa 30.000ha, vùng sản xuất rau, hoa 1.350ha và vùng sản xuất muối 1.500ha).

(14) Năm 2014 diện tích áp dụng 148.000ha gieo trồng lúa; các giống lúa cấp nguyên chủng, xác nhận 1 và xác nhận 2 (chiếm 50% diện tích gieo trồng lúa mỗi năm).

(15) Năm 2011 là 530,068 tỷ đồng, năm 2012 là 599,986 tỷ đồng, năm 2013 là 882,328 tỷ đồng, năm 2014 là 449,547 tỷ đồng, năm 2015 là 311,39 tỷ đồng.

(16) Trong 5 năm đã xây dựng mới được 1.274km đường, 1.277 cầu dài 26.583m; nâng cấp mở rộng được 168km đường. Các công trình giao thông trọng yếu được đầu tư xây dựng, như: Đường Vĩnh Mỹ - Phước Long, Giá Rai - Gành Hào, Cầu Sập - Ninh Quới, An Phúc - Gành Hào, Giồng Nhãn - Gành Hào, cầu Giá Rai, cầu Phước Long 2, cầu Phó Sinh 2; cầu Vàm Xẻo Vẹt nối hai tỉnh Bạc Liêu và Hậu Giang. Có 3 tuyến đường: Gành Hào - Giá Rai - Phó Sinh - Cạnh Đền, Hộ Phòng - Chủ Chí - Chợ Hội, Cầu Sập - Ninh Quới - Ngan Dừa - Quốc lộ 63 được Trung ương đồng ý cho kết nối vào đường Hồ Chí Minh, đồng thời cũng đồng ý đưa 8 dự án giao thông của tỉnh vào dự án phát triển giao thông Đồng bằng Sông Cửu Long từ nay đến năm 2020. Triển khai nạo vét sông Bạc Liêu - Cà Mau, mở rộng Quốc lộ 1 cửa ngõ phía Bắc thành phố Bạc Liêu, xây dựng đường tránh thành phố Bạc Liêu và thị trấn Hộ Phòng.

(17) 5 năm qua, toàn tỉnh đã thực hiện 897 tuyến giao thông nông thôn bằng bê-tông, nhựa chiều dài 1.122km; xây dựng 1.222 cây cầu nông thôn, tổng kinh phí đầu tư 892,96 tỷ đồng. Đến nay 37/50 xã (chiếm 74%) có đường ô tô đến trung tâm xã. Dự kiến đến cuối năm 2015 sẽ có thêm 2 xã có đường giao thông đến trung tâm xã, nâng tổng số lên 39/50 xã.

(18) Hệ thống cảnh báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu (đã đưa vào khai thác 3 trạm đèn báo bão ven biển, chuẩn bị đầu tư xây dựng 14 trạm cảnh báo động đất, sóng thần khu vực ven biển); hệ thống công trình phân ranh mặn, ngọt hai tỉnh Sóc Trăng - Bạc Liêu; nâng cấp đê biển; hệ thống kè chống sạt lở cửa sông, ven biển thị trấn Gành Hào và khu vực cửa biển Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu; dự án thí điểm “đê mềm” gây bồi, tạo bãi khôi phục rừng phòng hộ ven biển khu vực cửa biển Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu; xây dựng ô đê bao khép kín, khởi công Cống trụ đỡ Nhà Mát - Kênh 30/4 và Cống trụ đỡ Cái Cùng; đồng thời đã triển khai nguồn vốn (ODA của Chính phủ Bỉ) 417 tỷ đồng để đầu tư xây dựng 30 trạm bơm điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

(19) Đã triển khai nhiều công trình đê, bờ bao dài 3.371,4km; 58 cống, đập, 3 công trình kè chống sạt lở bờ biển, bờ sông; xây dựng 210 ô thủy lợi khép kín (diện tích mỗi ô 30 - 70ha); hoàn thành 21 trạm bơm điện tại các ô thủy lợi khép kín trên địa bàn.

(20) Đến năm 2015, có 65% phòng học đạt chuẩn phòng học kiên cố (có 2.656/4.087 phòng học toàn tỉnh).

(21) Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình như: đường Trần Huỳnh, đường Lê Duẩn, nối thông đường Hòa Bình - Ngô Gia Tự, đường Nguyễn Văn Linh - Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Linh với Quốc lộ 1A; đường Hùng Vương - Võ Văn Kiệt, cầu Võ Thị Sáu, cầu Tràng An bắc qua kênh 30/4, đường Ninh Bình, đường Bạch Đằng và duy tu, nâng cấp nhiều tuyến đường trong nội ô thành phố.

(22) Như: Hạ tầng Khu công nghiệp Trà Kha; Tượng đài chiến thắng; Thư viện tỉnh; Nhà thiếu nhi Phùng Ngọc Liêm; tòa nhà Bạc Liêu Tower; cổng chào thành phố; bia kỷ niệm nơi treo lá cờ Đảng đầu tiên tại Bạc Liêu; Quảng trường Hùng Vương cùng các công trình, biểu tượng trên Quảng trường; kè hai bên bờ sông Bạc Liêu (đoạn trong nội ô thành phố) và chỉnh trang đô thị hai bên bờ sông Bạc Liêu; Nhà thi đấu Đa năng; Trung tâm hội chợ triển lãm; các trung tâm thương mại, các siêu thị, chợ Bạc Liêu; tượng đài sự kiện Mậu Thân, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ; nâng cấp Trung tâm hội nghị thành Trung tâm văn hóa; Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu; ký túc xá sinh viên... đã được xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng. Trung tâm triển lãm văn hóa, nghệ thuật đang tiếp tục được triển khai thực hiện tích cực, dự kiến đi vào khai thác sử dụng trong quý III/2015.

(23) Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã trồng mới hơn 30.000 cây xanh các loại trên các tuyến đường trung tâm; lát gạch vỉa hè hơn 20.000m2. Mạng lưới nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ trong địa bàn thành phố đã được chỉnh trang, nâng cấp. Các loại dịch vụ đô thị như: Cấp điện, cấp nước, bưu chính, viễn thông, taxi, xe buýt, xử lý rác... đều có sự phát triển; đang triển khai xây dựng nhà máy xử lý rác.

(24) Các công trình như: Đường tránh thị trấn Hộ Phòng; Bệnh viện Đa khoa huyện Giá Rai; Trung tâm Y tế dự phòng huyện Giá Rai; Trường THPT Giá Rai; đường Giá Rai - Gành Hào; đường Khúc Tréo - Tân Lộc; tuyến đường Quốc lộ 1A đi  Phong Thạnh Đông - Vĩnh Phú Tây; Quốc lộ 1A đi Phong Thạnh A; tuyến đường về xã Phong Thạnh; Trung tâm bồi dưỡng Chính trị; Trung tâm dạy nghề; Trường THPT Nguyễn Trung Trực; Trường THPT Tân Phong; cầu Giá Rai, Trụ sở Huyện ủy Giá Rai

(25) Ước đến cuối năm 2015 toàn tỉnh có 10 xã đạt 19 tiêu chí (đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra 10/10 xã); 10 xã đạt 15 - 18 tiêu chí; 20 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí; 10 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí xây dựng nông thôn mới.

(26) Tổng số doanh nghiệp đến hết năm 2015 trên địa bàn tỉnh là 1.700 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký trên 10.900 tỷ đồng, số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 98%.

(27) Tổng vốn huy động của các ngân hàng đến tháng 2/2015 là 11.319 tỷ đồng, tăng 4.933 tỷ đồng so với năm 2010. Tổng dư nợ cho vay đến tháng 2/2015 là 13.851 tỷ đồng, tăng 66% so với năm 2010. Có 17 chi nhánh ngân hàng cấp tỉnh, 7 chi nhánh ngân hàng cấp huyện, 7 quỹ tín dụng nhân dân, 59 phòng giao dịch và 67 điểm giao dịch ngân hàng đang hoạt động trên địa bàn tỉnh.

(28) Tham gia xây dựng công trình giảm nghèo của tỉnh Hà Giang; đóng góp trồng cây lưu niệm tại Đền thờ Bác Hồ ở tỉnh Cao Bằng và tỉnh Cà Mau, Đền đồng chí Võ Văn Kiệt ở Vĩnh Long, Đền Hùng và Đền Mẫu Âu Cơ ở Phú Thọ; bình chọn Vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên thế giới; đóng góp tu bổ Nghĩa trang Hàng Dương - Côn Đảo...

(29) 5 năm qua đã huy động được hơn 667 tỷ đồng quỹ An sinh xã hội và Vì người nghèo của tỉnh.

(30) Năm 2009 xếp thứ 59/63 tỉnh, thành; năm 2010 xếp thứ 30; năm 2011 xếp thứ 39; năm 2012 xếp hạng 7/63 tỉnh, thành của cả nước (tăng 52 bậc so với năm 2009); năm 2013 xếp hạng 14/63 tỉnh, thành và năm 2014 xếp hạng 22/63 tỉnh, thành.

(31) Trong 5 năm qua, tỉnh đã thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, với 98 dự án về phát triển kinh tế - xã hội, với tổng số vốn đầu tư hơn 20.000 tỷ đồng, tăng gấp 55 lần so với nhiệm kỳ trước.

(32) Diện tích nuôi trồng thủy sản 125.767ha năm 2010 tăng lên 129.716ha năm 2015 (tốc độ tăng bình quân hàng năm 1,34%); sản lượng nuôi trồng tăng từ 149.281 tấn năm 2010 lên 184.000 tấn năm 2015 (tốc độ tăng bình quân hàng năm 4,13%); trong đó sản lượng tôm tăng từ 68.139 tấn năm 2010 lên 104.500 tấn năm 2015 (tốc độ tăng bình quân hàng năm 8,62%). Các mô hình điển hình như: Nuôi tôm sú, tôm thẻ thâm canh theo hướng VietGAP; mô hình nuôi tôm sạch dưới tán rừng, mô hình tôm - lúa; mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến kết hợp; mô hình nuôi cá kèo công nghiệp và bán công nghiệp, mô hình nuôi cá chình thâm canh,..

(33) Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả như Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết tỉnh, Âu Vững, Thiên Phú, Tân Phong Phú, Seaprodex, Trang Khanh, Cẩm Quyên, Trang Hoàng Mỹ, Trúc Anh, Hải Nguyên, Dương Hùng, Phương Ngọc, Tứ Hải…

(34) Đã ban hành và triển khai thực hiện: Chương trình số 14/CTr-TU ngày 9/8/2013 về thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 3/6/2013 của BCH Trung ương (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Chương trình hành động phát triển bền vững giai đoạn 2008 - 2015 và định hướng đến năm 2020, Chương trình hành động về tăng trưởng xanh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2020,…

(35) Theo Khung kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh, nhóm dự án ưu tiên có 101 dự án, gồm 32 dự án phi công trình và 69 dự án công trình, với tổng kinh phí 20.000 tỷ đồng. Hiện đã và đang thực hiện 16 dự án giai đoạn 2012 - 2020, với tổng kinh phí hơn 3.338 tỷ đồng.

(36) Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) tỉnh Bạc Liêu đã được Chính phủ xét duyệt theo Nghị quyết số 51/NQ-CP ngày 8/4/2013. Quy hoạch quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngầm tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 được UBND tỉnh phê duyệt theo Quyết định số 455/QĐ-UBND ngày 6/3/2013.

(37) Ước giai đoạn 2011 - 2015 toàn tỉnh trồng được 183,75ha rừng tập trung, nâng tỷ lệ độ che phủ của rừng, cây phân tán và cây lâu năm 12,18% năm 2015. Năm 2015, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh ước đạt 80%; tỷ lệ dân số thành thị được cung cấp nước sạch ước đạt 81,5%; tỷ lệ thu gom chất thải rắn ở đô thị ước đạt 75%.

(38) Trường đạt chuẩn quốc gia 114/291, đạt 39,2%; trong giai đoạn 2011 - 2015 đã triển khai thực hiện một số lớp chất lượng cao ở các trường trọng điểm trên địa bàn các huyện, thành phố. Đã điều động, sắp xếp lại 381 lượt cán bộ, giáo viên dôi dư; trong đó giải quyết chính sách thôi việc, nghỉ việc cho 203 người.

(39) Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 98,74% năm học 2013 - 2014 (tăng 3,14% so năm học 2010 - 2011); thi Olympic truyền thống 30/4 lần thứ XIV tại thành phố Hồ Chí Minh, đoàn Bạc Liêu có 29/54 thí sinh dự thi đoạt huy chương (gồm: 6 vàng, 9 bạc, 14 đồng), thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 trung học phổ thông năm 2014 có 7/53 thí sinh dự thi đạt giải; thi chọn học sinh giỏi giải toán trên máy tính cầm tay toàn quốc tại Sóc Trăng có 19/28 thí sinh dự thi đoạt giải.

(40) Giai đoạn (2011 - 2014), các cấp, các ngành trong tỉnh đã cử 13.606 đồng chí đi đào tạo, bồi dưỡng ở các trường trong tỉnh, ngoài tỉnh và ở nước ngoài. Trong đó: lý luận chính trị - hành chính  (cao cấp 115 học viên, trung cấp 563 học viên); sau đại học 331 đồng chí (tiến sĩ: 13, thạc sĩ: 219, chuyên khoa II: 23, chuyên khoa I: 76; cao đẳng, đại học 1.653 đồng chí, trung học chuyên nghiệp 942 đồng chí và 38 cán bộ được tham dự các lớp bồi dưỡng chuyên viên cao cấp, 335 chuyên viên chính; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho 6.671 lượt người; ngoài ra còn bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho 918 người thuộc đối tượng 3 và trên 1.500 lượt người thuộc các đối tượng khác).

(41) Hàng năm, Trường đại học Bạc Liêu cho ra trường hơn 1.000 sinh viên; Trường cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật cho ra trường gần 800 sinh viên, đáp ứng khá tốt nhu cầu nguồn nhân lực cho các cơ quan các cấp và các thành phần kinh tế (còn khá nhiều sinh viên ra trường chưa có việc làm, do kinh tế - xã hội phát triển chậm).

(42) Trong 5 năm qua, đã tiến hành đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu 65 đề tài, dự án cấp tỉnh, trong đó: Đề tài nghiên cứu khoa học: 48 đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm 17. Một số đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt kết quả khi triển khai thực hiện như: Mô hình nuôi tôm sinh thái ở vùng ngập mặn huyện Đông Hải; mô hình đa canh trên nền đất lúa vùng sản xuất khó khăn huyện Hòa Bình; xây dựng cánh đồng mẫu lớn và ghi chép sổ tay sản xuất lúa Một bụi đỏ trên đất nuôi tôm theo hướng GAP tại huyện Hồng Dân; Dự án “Trồng thử nghiệm giống khoai lang đỏ ở vùng ngọt hóa tỉnh Bạc Liêu”, Đề tài “Nghiên cứu và xây dựng quy trình ương cá chẽm từ cá hương lên cá giống”.

(43) Đến nay có 188.686/195.294 gia đình đạt chuẩn văn hóa, chiếm 96,5%; 511/518 khóm, ấp văn hóa, chiếm 98,64%; 991/1.010 cơ quan, đơn vị văn hóa, chiếm 98,1%.

(44) 7/7 huyện, thị có trung tâm thể dục - thể thao; tỷ lệ người tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên 25%; có 250 câu lạc bộ thể dục thể thao (như Judo, Teakwondo, thể hình, thể dục dưỡng sinh, quần vợt...) hoạt động thường xuyên. Trong 5 năm qua tỉnh đã cử nhiều đoàn tham dự các giải thi đấu thể thao quốc tế, quốc gia và khu vực, đoạt nhiều giải cao, cụ thể như: 450 huy chương (trong đó, 129 vàng, 149 bạc, 212 đồng); thứ hạng thể thao thành tích cao nâng lên từ hạng 57/63 (năm 2010)  lên hạng 32/63 (năm 2015).

(45) Ước năm 2015 có 107 cơ sở y tế; trong đó có 7 trung tâm y tế dự phòng, 75 cơ sở khám chữa bệnh với 1.820 giường bệnh; 100% trạm y tế xã, phường có bác sĩ phục vụ; phòng, chống có hiệu quả một số bệnh nguy hiểm như sốt xuất huyết, lao và các bệnh xã hội; xây dựng hoàn thành bệnh viện tuyến huyện.

(46) Toàn tỉnh có 18 cơ sở dạy nghề (trong đó công lập 13 cơ sở, ngoài công lập 5 cơ sở); 5 năm qua đã đào tạo nghề cho 62.668 lao động và chuyển giao công nghệ cho 14.570 lao động. Trung bình hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 20.741 lao động (chỉ tiêu là 13.500 lao động/năm) và đào tạo nghề cho trên 12.000 người.

(47) Bình quân mỗi năm giảm 3% hộ nghèo; xây dựng được 2.902 căn nhà tình nghĩa, 5.243 căn nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, nhà đồng đội; triển khai xây dựng 8.336 căn nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định 167/QĐ-TTg và QĐ 67/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và hoàn thành Đề án hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo (giai đoạn I) trên địa bàn tỉnh. Hiện nay toàn tỉnh còn 4,88% hộ nghèo (năm 2011 là 18%), trong đó có 1.896 hộ dân tộc Khmer nghèo, chiếm 9,52% số hộ nghèo toàn tỉnh và chiếm 12,45 % so với số hộ dân tộc thiểu số trong tỉnh.

(48) Nghĩa trang liệt sĩ đã xây dựng theo hướng nghĩa trang công viên, đã ốp đá hoa cương 4.000 ngôi mộ Anh hùng liệt sĩ.

(49) Tổng số đoàn viên, hội viên kết nạp trong nhiệm kỳ 114.119 đoàn viên, hội viên; số hội viên được đưa ra hoặc xóa tên 62.909 hội viên.

(50) Tổng số cán bộ được đề bạt, luân chuyển, điều động, sắp xếp 450 cán bộ.

(51) Số tổ chức đảng trong sạch vững mạnh hằng năm 347/453 (năm 2010), 319/373 (năm 2011), 286/344 (năm 2012), 280/341 (năm 2013), 286/344 (năm 2014). 

(52) Trong nhiệm kỳ đã kết nạp mới 6.739 đảng viên (trong đó: năm 2010 kết nạp 1.544 đồng chí, năm 2011 kết nạp 1.454 đồng chí, năm 2012 kết nạp 1.321 đồng chí, năm 2013 kết nạp 1.227 đồng chí, năm 2014 kết nạp 1.193 đồng chí).

(53) Trong đó có: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh; Quy định việc MTTQ Việt Nam tỉnh Bạc Liêu và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong tỉnh tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Chỉ thị số 37 về tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” và thực hiện “Ngày Dân vận khéo” vào ngày 15 hàng tháng trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 38 về việc triển khai và tổ chức thực hiện Quyết định số 217 và 218/QĐ-TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị (khóa XI); Kế hoạch số 17 về Xây dựng mỗi đảng viên là tuyên truyền viên hạt nhân ở cơ sở.

 

Viết bình luận mới
thăm dò ý kiến

Theo bạn, điều gì có thể giữ chân và thu hút người tài vào khu vực công?

THÔNG TIN CẦN BIẾT
Nhiều mây, có mưa, có nơi mưa vừa, mưa to và rải rác có dông. Gió tây nam cấp 3. Trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét và gió giật mạnh.