Thực hiện Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVI): Phát triển năng lượng sạch gắn với yếu tố bền vững
Với quyết tâm tăng trưởng nhanh và khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh, Ban Chấp hành (BCH) Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết 04-NQ/TU về xây dựng Bạc Liêu trở thành một trong những trung tâm năng lượng sạch của quốc gia. Song, đằng sau những mục tiêu, nhiệm vụ của nghị quyết này là hàng loạt các vấn đề đáng bàn, nhất là sự phát triển bền vững trong tương lai và thân phận, sinh kế của rất nhiều con người dưới những công trình ngàn tỷ.
Dự án điện mặt trời tại xã Vĩnh Hậu (huyện Hòa Bình).
CẦN THIẾT VÀ KỊP THỜI
Có thể nói, sự ra đời của Nghị quyết 04 là rất cần thiết và kịp thời, đặc biệt là trong điều kiện các tỉnh, thành phố trên cả nước đang phát triển mạnh các dự án năng lượng sạch. Do vậy, cần một nghị quyết “mở đường” để tạo nên những tiền đề, động lực và nâng cao năng lực cạnh tranh cho lĩnh vực này.
Thực tiễn từ dự án điện gió của Công ty Công Lý đã đầu tư và đưa vào khai thác cho thấy, Bạc Liêu rất giàu tiềm năng, thế mạnh cho phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng sạch. Với bờ biển dài 56km và vùng ven biển có gió mạnh với tốc độ bình quân gió 7m/s và có nắng gần như quanh năm với số giờ nắng đạt khoảng 2.200 - 2.700 giờ/năm đã tạo nên những lợi thế riêng cho Bạc Liêu phát triển mạnh lĩnh vực này, nhất là với điều kiện thiên nhiên ưu đãi Bạc Liêu ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ, động đất, sóng thần. Đây là điều kiện quan trọng hàng đầu để các tập đoàn, doanh nghiệp trong, ngoài nước đầu tư cho các công trình ngàn tỷ vào Bạc Liêu.
Để phát huy, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế này, BCH Đảng bộ tỉnh xác định phát triển năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) và điện khí là một trong 5 trụ cột phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hiện tỉnh đã hoàn thành Nhà máy Điện gió Bạc Liêu có quy mô công suất hơn 99MW (lớn nhất nước); sản lượng điện gió và điện mặt trời áp mái nhà thương phẩm năm 2020 đạt 199,16 triệu kWh (điện gió 191,1 triệu kWh, điện mặt trời mái nhà 8,06 triệu kWh).
Đến thời điểm này, Bạc Liêu có 9 dự án điện gió (tổng công suất 562MW) đã được đưa vào quy hoạch và đang triển khai thi công. Trong đó, phấn đấu 7/9 dự án hoàn thành trước tháng 11/2021 và 2 dự án hoàn thành trong năm 2022. Đặc biệt, tỉnh đã thu hút được Dự án Nhà máy điện LNG Bạc Liêu 3.200MW, tổng mức đầu tư khoảng 93.600 tỷ đồng (tương đương 4 tỷ USD). Đồng thời, điện mặt trời mái nhà tiếp tục có bước phát triển mạnh và tính đến cuối năm 2020 có tổng số 1.248 khách hàng lắp đặt điện mặt trời mái nhà, và kết hợp sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, với tổng công suất 193.399kWp. Những tiền đề quan trọng trên là điều kiện để Bạc Liêu trở thành một trong những trung tâm năng lượng sạch của quốc gia. Qua đó, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh với những dự án được hứa hẹn sẽ đóng góp hơn 50% trên tổng thu ngân sách.
Một gia đình nghèo sống ven rừng phòng hộ Bạc Liêu với nghề khai thác con giống từ tự nhiên. Ảnh: L.D
NHIỀU THÁCH THỨC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Xây dựng Bạc Liêu trở thành một trong những trung tâm năng lượng sạch của quốc gia là rất cần thiết, nhưng lại quan trọng hơn cả chính là sự phát triển bền vững của môi trường và sinh kế của gần 1.000 hộ dân sinh sống ven biển.
Về môi trường, một trong những thách thức được đặt ra và gần như chưa có một dự báo hay báo cáo nào cảnh báo về những ảnh hưởng, hoặc các tác động do các dự án năng lượng tái tạo gây ra. Thậm chí, ngay cả các báo cáo về đánh giá tác động môi trường của các dự án đã và đang triển khai cũng chưa nói hoặc bàn về nguy cơ này. Cụ thể, khi hết vòng đời của các dự án điện gió thì những khối sắt nặng hàng trăm ngàn tấn ấy sẽ xử lý như thế nào? Và đâu là bãi tập kết để xử lý cho những thiết bị siêu trường, siêu trọng này? Đối với các bản pin mặt trời sau thời gian hết hạn sử dụng sẽ xử lý như thế nào khi cả tỉnh Bạc Liêu hiện nay chưa có nhà máy xử lý rác thải nguy hại, thậm chí có xây dựng thì cũng khó xử lý các tấm pin này?
Liên quan đến vấn đề dân sinh, các dự án điện năng lượng tái tạo tuy góp phần cho tăng trưởng kinh tế, nhưng lại làm ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng trăm hộ dân sinh sống ở ven biển. Đó là những lao động nghèo mà thu nhập của họ chỉ biết dựa vào biển, vào rừng từ nghề khai thác con giống, bắt cá, mò nghêu, bắt ốc… Đây là những đối tượng cần được quan tâm, vì mục đích cuối cùng của phát triển kinh tế là lo cho dân và đây cũng là mục tiêu nhất quán và xếp vào chiến lược hàng đầu của Đảng, Nhà nước ta.
Để hóa giải thách thức này, các ngành, địa phương cần nghiên cứu và có ngay các giải pháp giúp người dân sinh sống ở khu vực ven biển được an cư từ các mô hình tạo sinh kế để họ không phải cứ sống bám vào biển, vào rừng theo kiểu khai thác tự do mà tạo được việc làm, thu nhập ổn định từ các dự án khôi phục lại rừng (do ảnh hưởng từ các dự án điện gió), hay làm xã viên của các hợp tác xã nuôi nghêu, sò ven biển, thậm chí làm dịch vụ cho các dự án phát triển du lịch gắn với các dự án năng lượng tái tạo.
Thực tế đã qua cho thấy, có nhà đầu tư dự án điện gió từng hứa là sẽ hỗ trợ và đưa những người sống ven biển vào làm dịch vụ cho các dự án du lịch, nhưng đó chỉ là lời “hứa suông”, rồi gây khó cho việc mưu sinh của họ bằng việc cảnh báo khai thác thủy sản gần công trình sẽ làm ảnh hưởng đến an toàn hành lang lưới điện! Vì vậy, để phát triển bền vững và đảm bảo an ninh trật tự cho các dự án du lịch sinh thái trong tương lai, các chủ đầu tư cần liên kết với địa phương xây dựng kế hoạch và thực hiện các mô hình sinh kế giúp người dân bị ảnh hưởng bởi các dự án tạo được việc làm, thu nhập và để họ xem việc gắn bó, giữ gìn, bảo vệ các dự án chính là “nồi cơm” của mình.
Về lâu dài, khi triển khai đầu tư các dự án mới, việc tham gia đóng góp ý kiến cho các dự án năng lượng tái tạo cần phát huy thêm vai trò của ngành LĐ-TB&XH và các ngành, địa phương, chuyên gia tham vấn, phản biện thay vì chủ công hiện nay chủ yếu tập trung ở ngành Tài nguyên - Môi trường và mới dừng lại ở góc độ đánh giá tác động môi trường. Bởi việc triển khai một dự án mới có liên quan đến dân sinh không dừng ở môi trường mà còn liên quan đến nhiều yếu tố khác như: văn hóa tiếp nhận, tập quán sinh hoạt và cả chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động…
LƯ DŨNG
-------------------------------------------------------------------------------
Mới đây, khi nhấn mạnh về việc triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh - Phạm Văn Thiều khẳng định: “Mục đích cao nhất của việc triển khai các công trình, dự án trên địa bàn tỉnh chính là lo cho dân và vì hạnh phúc của người dân. Do vậy, cái gì có lợi cho dân thì làm và bất cứ một dự án nào cũng phải nghĩ đến quyền lợi của dân”. Sự chỉ đạo này cũng chính là mục tiêu để cụ thể hóa quan điểm đã được thể hiện trong Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XVI về xem chỉ số hạnh phúc của người dân chính là thước đo cho phát triển, giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn gắn liền với chỉ số phát triển con người vốn là nền tảng cho phát triển bền vững.