Tiêu điểm
Hóa giải thách thức trong nuôi tôm công nghệ cao
Một trong những giải pháp quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế chính là phát huy thế mạnh từ mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC). Song, nhìn trên tổng thể, việc phát triển và nhân rộng mô hình này vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt như kỳ vọng đề ra.
Công ty TNHH EcoSeafood Group với mô hình E.S.G Farm.
CHI PHÍ THỨC ĂN LÀM GIẢM LỢI NHUẬN
Bạc Liêu có tổng diện tích nuôi tôm hơn 132.660ha, trong đó có 5 vùng nuôi tôm công nghệ cao với diện tích 3.900ha (gồm phường Nhà Mát - TP. Bạc Liêu; các xã: Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A, Vĩnh Thịnh - huyện Hòa Bình và xã Long Điền Tây - huyện Đông Hải). Các vùng nuôi này áp dụng các mô hình siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh tập trung, ứng dụng công nghệ nuôi tiết kiệm nước, nuôi an toàn sinh học. Qua đó, góp phần giảm thiểu tối đa các tiêu cực từ việc xả thải gây ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh.
Tuy nhiên đến nay, mô hình nuôi tôm ƯDCNC toàn tỉnh chỉ có 25 tổ chức và 984 hộ dân đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 - 3 giai đoạn. Có thể thấy, tuy đã xây dựng được 5 vùng nuôi tôm công nghệ cao, nhưng diện tích còn rất khiêm tốn và chỉ dừng ở con số hơn 7.360ha cho mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 - 3 giai đoạn. Trong khi đó, chỉ với diện tích nhỏ ấy đã cung cấp sản lượng trên 123.530 tấn, chiếm 40,5% tổng sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh.
Vấn đề đặt ra, nếu như tạo được đột phá từ các mô hình nuôi tôm ƯDCNC thì sẽ tạo nên những “cú hích” cho ngành tôm và quyết định trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu và cả thực hiện thành công kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2025. Phát biểu tại hội nghị ngành tôm diễn ra tại Bạc Liêu mới đây, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên - Phùng Đức Tiến, thừa nhận: “Nếu không có giải pháp đột phá, đến năm 2030, ngành tôm đạt kim ngạch xuất khẩu 5 - 6 tỷ đô-la Mỹ thì đã là điều đáng mừng, bởi giá thành cao, cạnh tranh kém là điểm yếu cản trở sự bứt phá”.
Xác định phát triển con tôm ƯDCNC là giải pháp tạo đột phá cho ngành tôm, Bạc Liêu được xem là “thủ phủ” ngành tôm phải tìm cho mình một hướng đi khác hơn. Trong đó, các trang trại hay hợp tác xã (HTX) nuôi tôm ƯDCNC cần áp dụng đồng thời 2 yếu tố - đó là “chi phí biến đổi và khấu hao cùng thấp”. Ông Trần Thanh Triều (xã Long Điền, huyện Đông Hải) - hộ nuôi tôm công nghệ cao có quy mô 10ha, cho biết: “Công nghệ ứng dụng vào quy trình nuôi tùy thuộc vào từng trang trại, có mức độ đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, ngoài lót bạt đáy ao, một số công nghệ được ứng dụng phổ biến bao gồm quy trình cho ăn tự động dựa trên cảm biến theo dõi lượng thức ăn trong ao nuôi, thiết bị theo dõi chất lượng môi trường nước trong ao nuôi, thì một số mô hình đầu tư lớn có thể áp dụng hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS- Recirculating Aquaculture System) để lọc và tái sử dụng nước, giúp kiểm soát chất lượng tốt hơn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường; hoặc ứng dụng công nghệ Biofloc, tức sử dụng vi sinh để phân hủy chất hữu cơ, giảm thiểu việc thay nước…
Thức ăn nuôi tôm nếu được áp dụng mô hình liên kết từ nhà máy đến đồng tôm sẽ giúp nông dân giảm chi phí đầu tư và tăng lợi nhuận.
Bên cạnh ứng dụng công nghệ để kiểm soát rủi ro, việc “chuẩn hóa” mô hình nuôi là yếu tố cần được xem xét kỹ để chọn phương thức tiếp cận hiệu quả nhất, tức giảm được chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận”.
Theo ông Triều, nếu việc tiếp cận nguồn đầu vào (thức ăn) trực tiếp từ nhà máy sẽ giúp tiết kiệm 50% chi phí, nhưng ông đang mua trả chậm qua trung gian vì không có tiền. Do vậy, giá thành sản xuất tôm của trang trại ông rất cao, loại 100 con/kg, giá 80.000 - 100.000 đồng/kg, tức cao hơn so với mua thức ăn trực tiếp từ nhà máy 20.000 đồng/kg.
Còn theo ông Tạ Hoàng Nhiệm - Chủ tịch Hiệp hội tôm Bạc Liêu, kiêm Giám đốc HTX nuôi tôm công nghệ cao huyện Đông Hải, thì thức ăn cho tôm loại 40 đạm, mua qua đại lý có giá 40.000 đồng/kg, trong khi mua trực tiếp từ nhà máy chỉ 27.000 - 28.000 đồng/kg, tức mỗi tấn thức ăn mua qua đại lý cao hơn 12 - 13 triệu đồng. Theo tính toán của ông Nhiệm, với quy mô diện tích nuôi thực tế của trang trại ông là 12.000m2, nếu mua qua đại lý, mỗi vụ nuôi chi phí cao hơn khoảng 700 triệu đồng so với mua trực tiếp từ nhà máy. Trong khi đó, khi nhìn sang khía cạnh khấu hao tài sản đầu tư, 2 trang trại tôm nêu trên có mức khấu hao cao, bởi vòng đời dự án thấp, chỉ 3 - 5 năm. Chẳng hạn, với mức đầu tư 12 tỷ đồng cho trang trại 10ha của ông Triều, vòng đời dự án 5 năm, đồng nghĩa mức khấu hao mỗi năm khoảng 2,4 tỷ đồng. Điều này bắt buộc phải thả ở mật độ nuôi cao để đảm bảo lợi nhuận, nhưng rủi ro dịch bệnh sẽ lớn vì tỷ lệ thuận với mật độ nuôi.
Từ thực tiễn này cho thấy, bài toán vốn đầu tư, liên kết sản xuất và thức ăn chính là “3 cái khó” cho phát triển các mô hình nuôi tôm ƯDCNC khi chi phí đầu tư và chi phí trung gian quá cao đã “ngốn” hết lợi nhuận của người nuôi tôm và đẩy họ vào cảnh rủi ro nếu nuôi tôm bị thất bại dẫn đến nợ nần, bán đất, nhất là các hộ nuôi tôm không may thiếu vốn đầu tư phải lệ thuộc hoàn toàn vào các đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp, thức ăn và chế phẩm phục vụ cho nuôi trồng thủy sản.
Con tôm xuất khẩu của Việt Nam có sức cạnh tranh thấp do chi phí đầu vào tăng cao. Ảnh: K.T
LÀM GÌ ĐỂ GIẢM CHI PHÍ?
TS. Trần Hữu Lộc - người sáng lập, điều hành Công ty TNHH EcoSeafood Group và là giảng viên Khoa Thủy sản Trường đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh, cho biết: “Các mô hình nuôi tôm công nghệ cao hiện nay đang rơi vào “vòng xoáy” cả chi phí biến đổi và khấu hao đều cao, tức dễ thất bại, khó mở rộng như thực tế đang diễn ra”. Thấy được “nhược điểm” này, cách đây 2 năm, EcoSeafood Group đã xây dựng E.S.G Farm, quy mô 30ha, với 40 ao nuôi, đồng bộ ao ương dưỡng, xử lý nước thải, hệ thống lấy nước dài hơn 2km để xử lý mầm bệnh và dành 30% diện tích trồng rừng. Bởi để mô hình nuôi dễ thành công thì phải “kéo” cả chi phí sản xuất và khấu hao cùng xuống thấp. Theo đó, muốn chi phí sản xuất thấp phải nuôi quy mô lớn, vì đây là lợi thế để tiếp cận nguồn đầu vào trực tiếp từ nhà máy với giá thấp (như thức ăn cho tôm), thay vì phải qua trung gian như nông dân nuôi nhỏ lẻ. Thực tế cho thấy, nhập hàng từ nhà máy giá có thể chỉ còn 20.000 - 22.000 đồng/kg, thay vì 40.000 đồng/kg khi mua trả chậm qua trung gian. Đây là cách làm giúp giảm chi phí biến đổi trong sản xuất.
Cùng với đó, với chi phí cố định (đầu tư hạ tầng), nhờ kéo dài vòng đời dự án lên đến 10 năm, nên khấu hao được kéo xuống thấp. Do đó, khối lượng hòa vốn cũng thấp vì khấu hao liên quan đến khối lượng hòa vốn. Điều này có nghĩa, người nuôi không bị áp lực phải nuôi mật độ cao như những trang trại công nghệ cao khác đang áp dụng ở Bạc Liêu và các tỉnh trọng điểm về nuôi tôm ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Mô hình thức ăn đi trực tiếp từ nhà máy đến cánh đồng đã được áp dụng ở Ecuador, Ấn Độ và đây được xem là chiếc “chìa khóa” trong việc quyết định trực tiếp đến giảm chi phí nuôi tôm và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho tôm. Theo ông Lê Văn Quang - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thủy sản Minh Phú: “Chi phí sản xuất tôm nguyên liệu của Việt Nam quá cao khiến khả năng cạnh tranh xuất khẩu với các đối thủ đến từ Ecuador, Ấn Độ là rất thấp. Ecuador nuôi tôm loại 30 - 35 con/kg, giá thành chỉ 2,6 đô-la Mỹ/kg, cạnh tranh hơn rất nhiều so với Việt Nam nên muốn bán được, tôm Việt Nam phải hạ giá”. Theo “vua tôm” Minh Phú, Việt Nam còn bán được tôm là nhờ vào phân khúc sản phẩm chế biến, trong khi hàng “không giá trị gia tăng” đang là sân chơi của doanh nghiệp đến từ Ấn Độ và Ecuador. Đây cũng là lý do khiến tôm Việt xuất khẩu chỉ loanh quanh trên dưới 4 tỷ đô-la Mỹ trong nhiều năm qua.
Khẳng định điều này, bà Trần Thụy Quế Phương - Chánh Văn phòng Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng: “Để gia tăng thị phần khai thác của tôm Việt, điểm mấu chốt cần giải quyết là phải cạnh tranh hơn, tức phải giảm giá thành”.
Để mở rộng theo hướng đi nêu trên, rõ ràng cần phải có sự chứng minh nhiều hơn trong thực tế, tức nhiều mô hình nuôi tương tự cùng thành công. Hiểu được vấn đề nêu trên, ông Lộc cho biết, đơn vị này đang làm việc với tỉnh Bạc Liêu để nhanh chóng “mở rộng thêm” càng nhanh càng tốt, bởi nhiều trang trại cùng thành công là cơ sở để nông dân dần thay đổi suy nghĩ. Khi nông dân thấy hiệu quả, muốn tối ưu hóa chi phí sản xuất, bắt buộc phải liên kết đủ lớn về quy mô diện tích, tham gia chuỗi cung ứng để đạt lợi thế về giá (đầu vào), thậm chí phải đăng ký doanh nghiệp nhằm tiếp cận được vốn vay. “Nông dân phải có suy nghĩ như chủ doanh nghiệp hoặc hợp tác theo hướng người có đất, người có tiền và người có kinh nghiệm quản lý”, ông nhấn mạnh. Khi đó, hàng trăm ngàn hộ nuôi tôm nhỏ lẻ hiện nay sẽ gom lại, hình thành vài ngàn farm nuôi quy mô lớn, có đánh giá tác động môi trường, xử lý chất thải, làm theo tiêu chuẩn quốc tế, có truy xuất nguồn gốc...
Đồng thời, mô hình này sẽ trở thành động lực để cho phần còn lại của thị trường làm theo, tức có dồn điền đổi thửa, nuôi tôm quy mô lớn, chinh phục 10 tỷ đô-la Mỹ như chỉ đạo từ Chính phủ…
.................................................................................................................................................................................................................................
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Tài nguyên - Lưu Hoàng Ly: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và giảm giá thành sản xuất
Tích cực thực hiện kịch bản tăng trưởng kinh tế của tỉnh với chỉ tiêu con tôm đạt 341.000 tấn, ngành Nông nghiệp và Tài nguyên sẽ tập trung phát triển các mô hình nuôi tôm ƯDCNC, nhất là mô hình nuôi tôm siêu thâm canh theo chỉ đạo của UBND tỉnh. Đồng thời, triển khai quyết liệt các giải pháp gắn với quan tâm chỉ đạo phát triển sản xuất. Theo đó, sẽ ưu tiên đầu tư nạo vét kênh tạo nguồn cho vùng Nam Quốc lộ 1A (do vùng phía Nam bị phù sa bồi lắng nhanh) đảm bảo việc cấp thoát nước phục vụ nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh việc kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm, kịp thời các hoạt động vi phạm quy định pháp luật về thủy sản; chú trọng quản lý chất lượng giống, thức ăn, thuốc và các chế phẩm sinh học trong nuôi tôm; kiểm tra thực hiện phòng, chống dịch bệnh thủy sản theo quy định; quản lý chất lượng nguồn nguyên liệu, ngăn chặn triệt để hành vi đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu...
Cùng với đó là thực hiện đồng bộ các chính sách phát triển hạ tầng ngành Thủy sản và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và giảm giá thành sản xuất, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng vùng sản xuất lớn, tập trung nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm tôm.
Song song đó, tăng cường giới thiệu tiềm năng, thế mạnh về thủy sản, kinh tế biển của tỉnh cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước biết để có kế hoạch và hướng đầu tư vào Bạc Liêu. Đẩy mạnh thực hiện chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo Nghị định 98/2018/NĐ-CP và tập trung nguồn lực xúc tiến thương mại vào các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN… phối hợp thực hiện các chương trình truyền thông, xúc tiến thương mại đến các nhà phân phối, hệ thống siêu thị. Tổ chức sản xuất các vùng nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung, theo “chuỗi giá trị ngành tôm”; khuyến khích doanh nghiệp, người nuôi tôm đẩy mạnh sản xuất theo hướng ứng dụng rộng quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, có chứng nhận (VietGAP, GlobalGAP, ASC...), thực hiện đăng ký xác nhận đối tượng nuôi chủ lực phục vụ truy xuất nguồn gốc, cung cấp nguồn nguyên liệu sạch phục vụ cho chế biến xuất khẩu; hoàn thành và đưa vào sử dụng Khu nông nghiệp ƯDCNC phát triển tôm Bạc Liêu với vai trò là hạt nhân và nòng cốt, có vai trò dẫn dắt đối với ngành tôm của tỉnh, là hạt nhân tác động, dẫn dắt và nhân rộng các mô hình nuôi tôm công nghệ cao, hướng đến xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước. Xây dựng thành công nhãn hiệu chứng nhận “Tôm sạch Bạc Liêu”, bảo vệ thương hiệu và nâng cao giá trị thương hiệu được chứng nhận bao gồm cả số lượng và chất lượng, có dấu hiệu nhận diện rõ ràng, chất lượng đảm bảo, ổn định và được người tiêu dùng chấp nhận và tin tưởng, tăng cường giới thiệu, quảng bá thương hiệu “Tôm sạch Bạc Liêu” trên các phương tiện thông tin đại chúng…
CHÁNH DŨNG