Bút ký

Tiếng đời vọng mãi

Thứ Sáu, 28/07/2023 | 16:30

Tôi có bốn đứa con. Đứa lớn là Ngọc Linh, đứa thứ ba là Ngọc Mai, đứa thứ tư là Ngọc Huyền và thằng út Cọp. Lần lượt tôi gả ba đứa con gái. Chúng có nhà riêng ở chợ Bạc Liêu, đi làm người Nhà nước cả chồng lẫn vợ, lần lượt rời bỏ mái ấm gia đình và vòng tay vợ chồng tôi. Ngay cả thằng út Cọp giờ cũng đi nghĩa vụ công an.

Về hưu rồi, rảnh rang đầu óc mới có thời gian nhìn ngắm, suy nghĩ đến chuyện vợ con. Hóa ra có rất nhiều việc mà mình phải giải quyết. Con Linh rồi tiếp tục con Mai có đứa con đầu lòng. Vợ chồng tôi phải xem nó khám thai ở đâu, ăn gì, rồi chỗ định sinh nở. Đến khi sinh, vợ tôi phải ra nuôi con gái ở cữ và giữ cháu ngoại cho đến khi gửi mẫu giáo được mới xong nhiệm vụ. Mỗi đứa con của chúng lấy đi 2 - 3 mùa xuân vốn còn lại không nhiều lắm của bà. Chưa hết, khi con của Ngọc Mai mới thôi nôi thì Ngọc Huyền thông báo tin vui đã có bầu. Một tin vui làm hai vợ chồng già ứa nước mắt nhưng cũng dự báo rằng bà vợ tôi sẽ tiếp tục có thêm ít nhất 3 năm chăm cháu và cũng ngần ấy thời gian tôi sẽ tiếp tục vò võ trong quê một mình, quản lý căn nhà vườn và cả ngôi từ đường.

Mỗi lần ra thăm cháu ngoại, thăm con gái là tôi nhìn ngắm bà vợ của mình, đã gần 60 tuổi rồi mà “tay xách nách mang”, bận túi bụi y như một người đàn bà có con mọn. Lúc thì hát ầu ơ vỗ cháu, lúc lại pha sữa, đút thuốc, khi cháu ngủ thì vo gạo nấu cơm… bà vừa chăm cháu vừa phải “làm con sen đáng kính” vì cả vợ lẫn chồng chúng nó đều là “người Nhà nước”, răm rắp 8 giờ ở cơ quan mỗi ngày. Có khi chúng về, con nhỏ xa lạ, không mến tay mến chân như bà ngoại. Thế là có bữa cả vợ chồng vào phòng ôm nhau mà ngủ, mọi chuyện còn lại giao cho bà ngoại. Cực lắm nhưng bà ngoại ít kêu ca, miệng mắng yêu, dạy cháu nói đỏ đẻ mà cười chúm chím. Ông bà xưa nói chẳng sai bao giờ: “con một táo, cháu một giạ” là thế.

Gia đình nhà văn Phan Trung Nghĩa. Ảnh: T.L

Còn tôi, bị “vợ bỏ rồi”, công việc ở nhà trút hết lên đầu, vậy mà vẫn cảm được niềm vui con cháu đề huề. Mỗi lần Chủ Nhật, thứ Bảy, tụi nó rảnh rỗi kéo nhau về bắt cá, bẻ dừa túm tụm vui chơi, nhậu nhẹt là tôi như mở cờ trong bụng. Sáng thứ Hai chúng đi, để lại cho tôi một nỗi cô đơn. Đến bây giờ tôi mới thấm thía nỗi buồn của ba tôi. Ngày xưa, vợ con tôi ở dưới quê với ba tôi, sau đó tôi được Nhà nước cấp cho một căn nhà thì bọn tôi “kéo gốc” về Cà Mau mà ở. Tết, vợ chồng con cái tôi về ăn Tết với ông vì lúc ấy má tôi đã mất, ông côi cút ở với thằng út Mỹ. Đến mùng 3 Tết, chúng tôi về lại Cà Mau thì ông đứng ở ngạch cửa nhìn theo chiếc đò chở chúng tôi đi rồi lấy tay lau nước mắt.

Trở lại chuyện của tôi, vợ con đi hết, công việc lặp đi lặp lại trong căn nhà trống đến phát sợ của tôi là ngồi vào bàn viết, có khi thì viết được có khi lại không. Những lúc không viết được là tôi xách chổi quét sân, quét nhà hay lấy kéo đi cắt tỉa kiểng trước ngôi từ đường. Vừa làm vừa hình dung cháu ngoại nói đỏ đẻ mà vui. Lại suy nghĩ thêm, lương của bọn nó lúc này, lại phải chi thêm tiền sữa, tiền khám bệnh, thuốc uống của đứa con đầu lòng chắc là khó khăn. Thế là đâm lo! Nhưng lương cán bộ về hưu của tôi, đi đám, đổ xăng xe, lo thêm cho thằng út Cọp đi học, cho bà nhà tôi có cái để dằn túi là đã khó khăn lắm rồi. Thế là tôi xoay qua ra sau đìa giăng lưới, cắm câu, nhổ bông súng, hái dừa, bẻ ớt… rồi “cụ bị” lên xe chở những thứ ấy vào nhà con gái với ý thức “coi vậy chứ cũng đỡ cho chúng nó”. Cứ mỗi ngày tôi mang “thực phẩm quê hương” cho lần lượt mỗi nhà của ba cô công chúa. Rồi một hôm tôi nhìn lại thấy cuộc đời về hưu của tôi như cái máy tính đã được lập trình: viết sách, quét nhà, nấu cơm, chài lưới…

Việc viết văn thì nặng nề cực nhọc. Có những lúc bắt gặp cảm hứng, đạt được cảnh giới nhập đồng, văn cứ trào ra như suối thì đố ông nhà văn nào mà dừng lại được, tôi ngồi gò lưng suốt đêm, hút cả 2 - 3 bao thuốc, uống cả mấy bình trà, sáng ra đi liêu xiêu như người bị bệnh sốt rét. Nhưng có khi, năm ba bữa cũng không viết được chữ nào.

Còn việc tự nấu cơm cho mình thì từ hồi xưa tôi không làm, giờ phải tập sự một cách vụng về đến cười ra nước mắt với nghệ thuật ẩm thực nửa kho nửa canh. Rất may là có con vợ thằng Kiên (cháu ruột ở với tôi hồi nhỏ), nhà ở gần. Nó cũng đi làm cả ngày, chiều muộn mới về tới nên thường xuyên 7 giờ tôi mới có bữa cơm chiều.

Còn việc chài lưới, hái rau củ… cho con thì tôi cũng lại làm lại từ đầu. Có bữa tôi quăng chài, té xuống bờ kênh rồi bị thoát vị đĩa đệm, phải đi TP. Hồ Chí Minh điều trị. Tay nhiều cục chai sần nổi lên sau hơn một năm quét nhà, cắt kiểng… vậy mà tôi vẫn làm, vẫn rất vui. Nhớ ngày xưa gần Tết là ba tôi “cụ bị” nào là gạo, nếp, chuối chín, rồi mãng cầu xiêm, dừa khô… những thứ thu hoạch ở ruộng vườn nhà mình rồi ngồi xe đò đổ đồng hàng trăm cây số xuống cà Mau để lo Tết cho gia đình tôi. Đây là cái nếp có từ thời xa xưa ở vùng bán đảo Cà Mau, con cái ra riêng ở xa, cha mẹ chở cây lá đi cất nhà, chở thực phẩm trong vườn nhà đi để lo cho chúng. Và giờ đây tôi cũng nghiễm nhiên theo phép của người xưa mà sống.

Lại nói về bà vợ của tôi. Ra TP. Bạc Liêu chăm cháu dăm ba bữa, bà lại về khu nhà vườn của mình trong tâm thế rất lạ. Bà chạy ra ao câu cá, hái mấy đọt rau nấu một bữa cơm. Rồi đi dọn phòng ngủ cho chồng, lấy chăn màn, ga trải nệm và quần áo dơ của chồng đem giặt… Mâm cơm vừa dọn lên, hai vợ chồng già mới gắp mấy đũa thì chuông điện thoại reo liên hồi: “Mẹ ơi mẹ ra giữ nhà cho con đưa thằng Thái đi học”, “Ngoại ơi con bị sốt, ngoại ra với con”... Thế là bà đứng ngồi không yên, ăn bữa cơm với chồng cũng không yên. Cuối cùng bà cũng cắp nón đi ra nhà con cháu, sau khi nhìn về phía tôi một ánh mắt của kẻ có lỗi khi bỏ lại ông chồng già ngồi một mình ngẩn ngơ trước bữa cơm dang dở. Bà đi thì tôi ăn một mình vậy, miệng lưỡi cứ vô cảm, vô hồn, và miếng cơm “như ăn cây”. Tôi bỏ ngang bữa cơm rồi nghĩ, các cô con gái nhà mình phải đọc mấy câu thơ của Nguyễn Duy mới được: “Mẹ ta không có yếm đào/ nón mê thay nón quai thao đội đầu/ rối ren tay bí tay bầu/ váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa…”.

Rồi một ngày bà vợ già của tôi về nhà thật sự sau gần mười năm đi chăm cháu. Lúc đó bà đã sáu mươi tuổi, khi mấy đứa cháu ngoại vào được lớp mầm mẫu giáo, về với hành trang duy nhất là một nụ cười mãn nguyện “như anh nông dân cày xong thửa ruộng”, như hoàn thành sứ mạng lớn lao của kiếp con người. Thế nhưng bà gửi lại thành phố rất nhiều thứ. Từ TP. Bạc Liêu về nhà nào có xa xôi gì, mấy người phụ nữ quê sau một thời gian ra đô thành cũng rủ bỏ phèn mặn của đồng chua; mà bà nhà tôi sao tàn tạ đến như thế? Xưa bà vốn là một cô gái đẹp có tiếng, đến ba bốn mươi tuổi, sinh nở bốn đứa con vẫn mặn mà. Giờ đây trước mắt tôi là một bà già với khuôn mặt nhăn nheo, xanh lả, tóc bạc trắng. Tay bà với những móng cùn còi cọc đầy gân xanh và những vết chai, thân thể bà ốm như que củi, nhìn vào tôi không nhận ra bà là phụ nữ hay đàn ông... Vậy đó mà bà cứ cười mãn nguyện, nụ cười cào cấu trái tim tôi!

Vợ về rồi, tôi mở cờ trong bụng, vậy là vợ chồng già heo hút có nhau. Bà đi câu cá, tôi hái rau, dọn lên bữa cơm đoàn viên. Chồng bảo vợ “bà ăn đi…”. Vợ bảo chồng “ông ăn đi…”.

Bà ơi, tôi với bà cái nghĩa vợ chồng sâu rộng như biển. Chúng mình gặp nhau rồi yêu nhau thuở hai đứa cùng 18 tuổi. Đó là mối tình đầu của chúng mình. Rồi tình duyên trắc trở, đến năm 24 tuổi ta lại gặp nhau, vượt qua định kiến để sống với nhau. Lúc ấy tôi làm phóng viên cho Báo Minh Hải, đó là thời bao cấp, đất nước nghèo kiệt, dân tình ăn cơm độn khoai, tôi thì lương ba cọc ba đồng không đủ nuôi thân.

Bà sinh con Ngọc Linh phải ở đậu nhà chị. Mới ra tháng bà lội ngoài đồng chăn vịt, đặt rượu nuôi con. Đến sinh con Ngọc Mai thì ở đậu nhà chị nuôi ngoài chợ Bạc Liêu. Nhắc ra thì tôi xấu hổ và có lỗi với bà.

Đêm ấy tôi đi nhậu với bạn, khi về thì chế Vân đã dẫn bà lội bộ đi sinh xong rồi. Tôi vào nhà hộ sinh nhìn mặt con Ngọc Mai giống tôi như đúc mà chạnh lòng thương cảm. Rồi con Ngọc Huyền chào đời cũng lại ở đậu nhà mẹ nuôi ở Xóm Lung. Cho đến khi sinh thằng Út Cọp thì bà mới sinh nở trong chính căn nhà của mình. Nhưng khi bà vượt cạn cũng không có mặt chồng, vì lúc ấy tôi phải đi nuôi ba bệnh nặng.

Minh họa: B.T

Tính ra, bà sinh bốn đứa con thì chỉ có mặt chồng lúc đi biển mồ côi có một đứa. Tôi làm nghề viết lách nên bôn ba giang hồ. Bà ở nhà một mình với con cái nheo nhóc trong cảnh ở đậu nhà người ta đến mười mấy năm trời. Thân ở đậu, dù tư cách em nuôi, con nuôi thì vẫn là người dưng. Để sống được bà phải hóa thân mình thành con ở, con sen. Bà làm việc không hở đôi tay. Cho con bú, cho con ăn rồi đi giặt giũ, nấu ăn cho cả gia đình của người cho mình ở đậu… Một hôm tôi nắm đôi tay bà lên xem, nó không còn móng nào lành lặn. Nhớ một bữa tôi từ Cà Mau về (lúc mình ở đậu nhà má nuôi ở Xóm Lung) nhìn thấy con Ngọc Linh, lúc đó mới 5 - 6 tuổi bưng chén cơm nguội ra hè ngồi ăn với ánh mắt lấm lét sợ sệt. Tôi nhìn con rồi lặng lẽ khóc, cảm thấy nhục cho cái thằng cha như mình.

Lại nói về cuộc sống của vợ chồng tôi vừa mới sum họp. Đã bước qua tuổi lục tuần, chúng tôi phải đối diện trước sự khắc nghiệt của đời sống người già. Ái ân cứ nhạt dần theo ngày tháng. Giường bà bà ngủ, giường tôi tôi nằm. Ái ân vắng vẻ thì tình cũng như mây mỏng, không thể tìm được những câu ong bướm ngọt ngào để tặng cho nhau. Ngày tháng trôi đi tôi với bà ấy cảm như không có chuyện gì để nói. Những câu chuyện rất tẻ nhạt dần là chuyện cơm áo gạo tiền, chuyện các con ở ngoài thành phố…

Càng ngày tôi càng thấu nỗi buồn cô quạnh của người già. Tuổi của chúng tôi không còn sức để sưởi ấm đời nhau, mà những người già thường sống bằng một nguồn sinh lực khác. Một hôm, tôi nghiệm ra rằng khu vườn rộng của nhà mình thiếu cái sinh khí của cuộc đời. Hai trái tim già yếu ớt không đủ đốt cháy một ngọn lửa gia đình đầm ấm. Thế là tôi nghĩ ra một sáng kiến. Tôi đi ra chợ mua hai con ngỗng, hai con gà, hai con vịt… để gây giống. Từ đó khu vườn vắng lặng nhà tôi bỗng xôn xao tiếng vọng của đời sống. Ngày thì ngỗng kêu cò kết, cò kết; sáng thì gà trống gáy ò ó o… Bà già nhà tôi tối ngày ở sau vườn tăng hưu mấy con gà con rồi đi chặt cỏ vườn. Tôi thì châm bình trà ra ngoài chòi lục giác vừa nhâm nhi vừa nghe tiếng chim hót, tiếng gà gáy như một chàng thi sĩ. Thế rồi vui chẳng được bao lâu, nghe hoài cũng chán. Tôi cảm rằng, cung bậc của tiếng đời như thế chưa đủ thiết tha để ru yên tâm hồn hai con người già cỗi

Một hôm tôi ra vườn, bắt gặp bà vợ của tôi đang dùng dao chặt cỏ vườn. Mắt bà để một nơi, hồn phách bà ở một ngã. Bà chặt vào bụi cỏ hay chặt thứ gì mà ngọn cỏ như gió lùa. Rồi ở đâu đó, phía ngoài tường rào có tiếng khóc của một bé gái. Con dao trên tay bà vợ tôi rớt hồi nào không hay, mặt bà dáo dác, thảng thốt nói với tôi: "Ông ơi con Giáng Tiên nó về"! Tôi ra cổng nhìn tận ngoài lộ xe cũng không thấy ai cả. Chắc đám con nít của ngôi nhà liền kề nhà tôi nó khóc. Tôi nói trong bụng bà già này thần kinh rồi, xong lại thấy tôi cũng bị thần kinh, rõ ràng nghe tiếng cháu ngoại tôi khóc. Tiếng khóc sao mà tha thiết, bỏng rát đến đốt cháy tâm hồn vợ chồng tôi. Bà vợ tôi bảo “ông lấy xe đi, mình ra thăm con Giáng Tiên một chút”. Ừ đi thì đi. Đến nhà Ngọc Mai tôi thấy cháu ngoại đang lên cơn sốt li bì. Mẹ nó dán tấm chống sốt trên trán rồi dùng khăn ấm chườm tay chân nó. Bà ngoại nhìn cháu ứa nước mắt, cháu nhìn bà ngoại mừng bằng một nụ cười méo sệt.

Tình máu mủ quá là thiêng liêng diệu kỳ, nó cho vợ chồng tôi một linh cảm như thế.

Rồi một hôm, con Ngọc Huyền về thưa với cha mẹ: “Con nuôi con vất vả quá, thiếu nợ người ta cũng nhiều, con tính bán nhà rồi về ở với cha mẹ, chỉ cách 6 - 7 cây số thôi, con đi làm, đưa thằng Mui đi học cũng được”…

Cách vài tháng sau, vợ chồng Ngọc Mai lại thưa: “Tụi con trả căn nhà lại cho cha mẹ để cha mẹ cho thuê kiếm đồng vô đồng ra, cha mẹ già quá rồi. Tụi con về ở với cha mẹ…”.

Bà vợ tôi thì cười chúm chím. Còn tôi thì thấy sao quá hợp lý, mặc dù biết rằng rồi đây đời của vợ chồng tôi sẽ rước thêm gánh nặng. Nhất là vợ tôi rồi sẽ chuyển sang vai trò làm con sen cho các con, các cháu. Nhưng thôi, dù nặng nề cũng phải gánh. Cuộc đời tôi bôn ba trôi nổi, hồi trẻ thì thân phận nghèo hèn. Cứ canh cánh nỗi niềm của người có lỗi, không lo cho con mình đầy đủ với người ta. Vì thế cái mong muốn được ở chung, gần gũi với các con mình trở thành một tình cảm tha thiết, thầm kín.

Vậy là chúng về, cứ chiều xuống hay sáng sớm, đặc biệt là thứ Bảy, Chủ nhật, khu nhà vườn tôi đông nghẹt. Ngoài vợ chồng Ngọc Mai, Ngọc Huyền thì còn sấp nhỏ, thằng Vĩnh Phúc - con của vợ chồng thằng Kiên; con Giáng Tiên, thằng Ba Dũng - con của Ngọc Mai; thằng Mui - con của Ngọc Huyền. Sau này tôi cưới vợ cho thằng Út Cọp, vợ nó sinh được bé Na. Thấy nhà đông vui quá, thằng Sỹ Thái - con của Ngọc Linh cũng nài nỉ cha mẹ về với ông ngoại, khi không có học.

Mâm cơm dọn ra dài dằng dặc cha mẹ, ông bà, cháu nội, cháu ngoại xúm xít. Chén đũa khua vang tiếng đùa giỡn của bọn trẻ, con gái, con trai gắp thức ăn cho cha mẹ, không khí cứ rộn ràng như họp chợ. Chiều xuống, mấy thằng nhóc đi học về lôi xe ra khoảng sân rộng trước ngôi từ đường mà chơi, tiếng la hét, tiếng cười đùa xen lẫn tiếng khóc, xua tan, thủ tiêu hết không khí vắng lặng buồn tẻ của khu nhà vườn tôi hồi nào không biết. Đời sống của tôi, tâm hồn của vợ chồng tôi như được sưởi ấm. Cái ngọn lửa gia đình ấy nó thiêng liêng và huyền diệu đến nỗi đốt cháy những băng giá của tuổi xế chiều.

Rồi cái điều tôi tiên liệu đã xảy ra, thằng Ba Dũng chưa đến tuổi vào mẫu giáo, vợ chồng Ngọc Mai đi làm là thẩy cho bà ngoại. Thằng Mui nhức đầu, sổ mũi, con Ngọc Huyền đi làm cũng giao nó cho bà ngoại; thậm chí con Ngọc Linh bị sảy thai cũng đóng cửa nhà ngoài chợ mà về cho mẹ chăm sóc. Rồi con thằng Út Cọp mới sinh, tất cả đều đổ dồn lên đầu bà. Bà vợ tôi chạy như chạy giặc làm không hở đôi tay, suốt ngày “quần vo áo vận”.

Một bữa, bà chị vợ thứ tư của tôi ở chợ Bạc Liêu vào thăm, nằm võng nhìn ngắm em gái út của mình rồi nói giọng buồn buồn xen lẫn xót xa: “Chị thấy trên đời này không có ai như dì, có của ăn của để mà làm gì? Chết đâu có mang theo được. Từng tuổi này là phải biết sống thảnh thơi, đi đây đi đó du lịch cho nó vui vẻ thoải mái cuộc đời. Tội lệ gì mà biến mình thành một đứa chăn trâu…”. Nói đến đó, chị rơm rướm nước mắt rồi rũ áo ra về.

Ông anh vợ thứ bảy của tôi từ Cà Mau lên chơi, lúc nhậu ngà ngà say ông thấy thương em gái rồi cũng nói tương tự như thế.

Một bữa, đứa cháu vợ gửi cho vợ chồng tôi một đoạn văn đăng trên Facebook triết lý về lối sống của người già. Tôi nhìn người viết thì đó là của một người quen cũ, anh viết: “Đến tuổi về hưu là không nên trực tiếp dây vào chuyện con cháu. Hãy để chúng tự lập, tự chăm sóc nuôi dạy con cháu. Mỗi một thế hệ, một thời đại có cách chăm sóc dạy dỗ con cái khác nhau. Vì như ngày xưa “miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cả xương” còn hôm nay mà làm thế thì mất vệ sinh lắm. Không khéo chúng ta sẽ làm hỏng việc của con cháu. Tốt nhất, người già là nên sống thảnh thơi không vướng bận để dồn sức lo cho sức khỏe của mình, để rong chơi, đi du lịch cho biết đây biết đó, để hưởng thụ…”.

Bà vợ tôi đọc đoạn Facebook này, cộng thêm lời ong tiếng ve trách cứ của anh chị ruột thì bắt đầu nao núng, bắt đầu một nhận thức khác. Bà trở thành một bà già lằng nhằng, vừa làm vừa rên rỉ: “Ôi cuộc đời tôi sao nó khổ thế này?! Sinh nhiều con thế này mà không đỡ đần được một đứa!” .

Nhà văn Phan Trung Nghĩa bên ngôi nhà vườn tĩnh lặng. Ảnh: B.T 

Rồi một hôm, các con gái tôi như ngộ ra một điều rất quan trọng của tình mẫu tử. Đầu tiên là con Ngọc Mai vừa nói vừa khóc rằng sẽ đưa mấy đứa nhỏ về cho bà già chồng giữ hộ để vợ chồng nó đi làm. Tôi biết, con gái tôi khóc không phải vì trách mẹ, mà khóc vì lưu luyến nhớ nhung cái đời sống bên cha, bên mẹ của mình.

Sau đó con Ngọc Huyền cũng đưa thằng Mui đi theo vào cơ quan dù bữa đó nó không đi học hay nhức đầu, sổ mũi. Và sau nữa là con Linh cũng ít cho thằng Sỹ Thái về. Tôi biết các con tôi muốn cho mẹ nó thảnh thơi mà an hưởng tuổi già.

Con cháu đi rồi khu nhà vườn tôi trở nên quạnh vắng như lúc trước. Xôn xao giữa trưa hè tiếng cu gù và tiếng ngỗng cò két, sao tôi vẫn cảm thấy thiếu vắng những âm thanh quen thuộc. Mâm cơm dọn lên vắng hoe. Rồi một bữa, mới 5 giờ sáng, bà gõ cửa phòng tôi, nói gấp gửi: “Ông thức dậy đi với tôi xuống nhà bà sui thăm thằng Ba Dũng, đêm hôm tôi nằm chiêm bao thấy nó bệnh nặng”. Tôi thất thần vì đêm hôm tôi ngủ chập chờn, trong mơ hồ tôi cũng nghe tiếng thằng Ba Dũng khóc.

Vợ chồng tôi dừng xe trước cửa nhà bà sui thì con Giáng Tiên hét toáng lên mừng ông bà ngoại. Thằng Ba Dũng tập tễnh chạy ra mếu máo khóc chỉ cho ông bà ngoại coi một cục bầm xanh trên trán như mọc sừng, vì đêm hôm bị té dập đầu xuống gạch. Bà vợ tôi ôm cháu ngoại khóc, tôi đứng như trời trồng. Bà nói nhỏ với tôi: “Rước mẹ con nó về nhà mình ông ơi. Tôi chịu cực khổ quen rồi”.

Chúng tôi lên xe về, con Giáng Tiên mếu máo, nước mắt lưng tròng, còn thằng Ba Dũng thì ôm chân bà ngoại khóc thét đòi theo. Bọn nó quen cái quen nước khu nhà vườn tôi rồi mà. Bà ngoại giọt ngắn, giọt dài, gỡ tay cháu ra mà chạy lên xe như chạy trốn.

Xe tôi đi khá xa mà tiếng khóc của thằng Ba Dũng vẫn còn nghe lồng lộng. Tiếng gì đấy nhỉ, âm thanh gì đấy nhỉ? Mà nó lảnh lót hơn tiếng họa mi, gợi cảm hơn tiếng đàn bầu, nó có sức mạnh hơn bất kỳ âm thanh nào trên dương thế, xoáy vào hồn ta, làm nát vụn trái tim ta nhưng cũng làm ngập tràn hạnh phúc cuộc đời ta? Phải rồi, nó là khúc hát thiêng liêng của tình máu mủ. Là một thứ tiếng của cuộc đời sâu thẳm nhất vang vọng mãi trong cuộc đời ta. Khu nhà vườn tôi bấy lâu thiếu đi khúc hát này nên nó tẻ nhạt, nó là một sự cấu tạo cuộc đời không hoàn chỉnh, rất thiếu những cung bậc sâu lắng của tình cảm người già, nên nó không đáp ứng được đời sống của người già. 

Nhà văn: Phan Trung Nghĩa

Viết bình luận mới
thăm dò ý kiến

Theo bạn, điều gì có thể giữ chân và thu hút người tài vào khu vực công?

THÔNG TIN CẦN BIẾT
Nhiều mây, có mưa, có nơi mưa vừa, mưa to và rải rác có dông. Gió tây nam cấp 3. Trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét và gió giật mạnh.