Chén cơm đồng bằng

Thứ Hai, 15/04/2024 | 15:31

Tôi sinh ra ở Bạc Liêu, một tỉnh xa xôi của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Ngày tôi còn bé, khi ấy là vào khoảng 60 năm trước, đó là khi biết bưng chén cơm lên ăn, tôi được bà mẹ nghèo dầu dãi một sương hai nắng dạy cho một bài học về thái độ đối với hạt cơm.

Mỗi lần tôi làm cơm rơi vãi, má tôi không la mắng (vì hồi đó có câu nói “Trời đánh tránh bữa ăn”) mà bà chỉ rên rỉ: “Tội chết con ơi!”. Rồi bà tự tay nhặt những hạt cơm rơi vãi, chỗ nào sạch thì má tôi cho vào miệng ăn hết, chỗ nào bẩn thì bà gom lại mang đi cho gà, vịt ăn. Má tôi nhặt đến không còn một hạt cơm rơi, bằng bàn tay nhẹ nhàng như làm sợ đau đớn hạt cơm. Trong cử chỉ ấy, khi lớn khôn, tôi mới nhận ra không chỉ là một thái độ trân trọng hạt cơm mà có cả ý niệm linh thiêng, một sự sùng tín đến mê muội như thể hạt cơm có linh hồn.

Cũng thuở tôi còn bé, trong những truyện cổ tích kể cho con nghe của các bà mẹ quê có câu chuyện: “Ngày xửa ngày xưa, hạt lúa to bằng trái dừa khô. Đến mùa lúa chín, lúa rụng rồi tự lăn vào nhà vào nông dân trồng lúa. Một bữa nọ, tại nhà một người đàn bà có máu mê cờ bạc, trong lúc mụ ta chuẩn bị đến sòng bạc thì lúa lăn vào chật nhà, cản cả lối đi. Bực tức bà ta lấy chổi quét nhà, vừa quét vừa đập lúa để đi ra. Thế là những hạt lúa bể ra, từ đó hạt lúa còn bé xíu như bây giờ. Và kể từ đó lúa giận đến mùa lúa chín nó không lăn vào nhà như lúc trước”.

Hồi đó, tất cả những ngôi nhà lá của nông dân làng tôi, vùng tôi đều có cái bàn ông Thiên trước cửa. Cứ ngày Rằm, mồng Một hằng tháng, người ta mang hai đĩa gạo và muối ra đó mà cúng Trời Phật. Họ quan niệm đó là hai thứ quý giá nhất trên đời, nó có tên gọi “hạt ngọc của trời đất”!

Những câu chuyện trên, giống như những khúc đồng dao dập dềnh, bảng lảng bay như những đụn khói đốt đồng của quê nghèo mỗi khi nắng hạn mưa thu, mỗi khi gió chướng về làm phóng khoáng mát mẻ đồng bằng. Cứ thế nó cấy vào tâm khảm, để ru hồn cho những đứa con của những miền quê nghèo đói vì chiến tranh, vì lạc hậu. Để rồi một hôm anh ta bật thốt: “Không biết vì sao mình lại đương đầu được với dông bão mà sánh bước với đời nhỉ?”. Và rồi anh ta cũng ngộ ra, là bởi hạt cơm quê nghèo, những bà mẹ quê nghèo đã cho anh ta một nhân cách, đó là nguồn cội sức mạnh của con người.

Nghĩ về hạt cơm của ĐBSCL, ta cũng bắt gặp nhiều điều khác lạ. Dân tộc ta thì ăn cơm 4.000 năm để dựng nước và giữ nước, còn người ĐBSCL thì lấy cây lúa làm cây tiên phong, giống như một ngọn giáo mà đi mở rộng bờ cõi Tổ quốc.

Không đâu trên thế giới có những cuộc đi chinh phục miền đất mới lạ lẫm như ở ĐBSCL. 500 năm trước, sau khi từ mạn ngoài vào xây dựng xong nền văn minh miệt vườn (vùng Tiền Giang), thì 100 năm sau người Tiền Giang và người tứ xứ mới vượt sông Tiền, sông Hậu để chinh phục miền đất mới mà xưa gọi là miệt Hậu Giang. Đây là vùng đất tính từ tả ngạn sông Tiền đến mũi Cà Mau. Cuộc Nam chinh này có quy mô lớn với hàng triệu người tham gia, kéo dài đến mấy trăm năm và có mấy làn sóng di dân lớn. Đợt thứ nhất là khi giặc Pháp đánh chiếm Nam Kỳ mà Nguyễn Đình Chiểu viết: “Bến Nghé, của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”. Đợt thứ 2, vào năm Thìn bão lụt 1904, thiên tai làm chết hàng ngàn người và gây ra nạn đói vì mất mùa 2 - 3 năm liền. Đợt thứ 3 là khi người Pháp hoàn chỉnh hệ thống kênh đào miệt Hậu Giang, tạo ra cho vùng đất này một tiềm năng, một sức cám dỗ mới. Và sau cùng là làn sóng di dân vì nạn đói từ Tiền Giang về Hậu Giang năm 1978 - 1979, do vùng Tiền Giang thiên tai làm mất mùa cũng 2 - 3 năm liền.

Cuộc chinh phục miệt Hậu Giang nó lạ lẫm, nó đặc biệt là vì đa số những người tham gia đều là tầng lớp sát đáy xã hội, họ bỏ quê cũ vì chiến tranh, vì nghèo đói và trốn chạy ách của địa chủ. Cứ năm, ba dân công rủ nhau lên chiếc xuồng mui kèm đợi mùa gió chướng về mát mẻ khi mà đất trời Hậu Giang ngập hương lúa chín để xuôi về phương Nam gặt mướn. Cũng có khi chiếc xuồng ấy cũng chở theo một ít trái cây miệt vườn rồi tham gia buôn bán lúc đợi nước ở các vàm sông, ngã năm, ngã bảy… để lấy tiền làm sở phí đi đường. Sau đó hình thành những chợ nổi trên sông rất đặc biệt của miệt Hậu Giang. Thế nên, người Hậu Giang gọi họ bằng những cái tên: “bà con miệt vườn”, “dân gặt mướn”, hay “khách thương hồ”… Đây là lực lượng chủ lực khai khẩn Hậu Giang.

Công cuộc mở rộng bờ cõi phía Nam thực chất là một cuộc triển khai nền nông nghiệp và lấy cây lúa làm tiên phong. Ảnh minh họa: Internet

Như vậy có thể nói, công cuộc mở rộng bờ cõi phía Nam thực chất đó là một cuộc triển khai nền nông nghiệp và lấy cây lúa làm tiên phong. Cây lúa như một ngọn giáo để chinh phục đất mới. Có nhìn như thế chúng ta mới thấy ý nghĩa của chén cơm đồng bằng.

Miệt Hậu Giang xưa được mệnh danh là “vùng đất hứa”, “đất làm chơi ăn thiệt”… đấy là nói theo ý nghĩa đất rộng người thưa, làm chủ đất dễ dàng, chứ thực chất đây là vùng đất xung khắc dữ dội, tìm được miếng ăn là “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, “trần ai khoai củ”...

Đừng nói đâu xa, ngày tôi còn bé, tức là vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Đất đai đã được khai phá, làng xóm đã được định hình. Vậy mà công việc đồng áng vất vả vô cùng. Hệ thống thủy lợi không như bây giờ, nông dân cứ đắp bờ giữ ngọt để canh tác. Lúc đó là chiến tranh, bom pháo đầy trời. Bom pháo không chỉ giết người mà còn làm vỡ bờ, vỡ đê khiến nước mặn tràn vào làm tiêu tan đồng lúa. Năm 1960 trở về trước, nông dân canh tác theo cách có thể tạm gọi là nền nông nghiệp phát cỏ cấy lúa. Tức là người ta dùng phảng để phát cỏ rồi kéo gom lại thành bờ giồng và dùng nọc cấy tra bụi lúa xuống đất, gọi là cấy nọc. Sau những năm 1960, đa số nông dân dùng trâu cày bừa gọi là nông nghiệp trâu cày. Nhà nào kha khá là nuôi trâu để cày bừa. Đến mãi sau thập niên 70 thì máy móc nông nghiệp dần nhập qua và phát triển dần.

Tôi nhớ những năm 1960 làm ruộng cực rất nhiều lần so với bây giờ và mất mùa liên tục do khoa học - kỹ thuật còn lạc hậu. Những giống lúa mùa kéo dài đến 5 - 6 tháng và chúng rất sợ mặn cũng như sâu bệnh. Năng suất 10 giạ lúa 1 công đất tầm cấy là trúng, có những năm mưa dứt sớm hay gió bấc về sớm là lúa chín háp, những bông lúa dựng trắng đồng như dựng cờ tang. Lúc ấy mấy lão nông ngồi bó gối thở dài vì họ biết rằng năm đó một cái tết nghèo sẽ đến. Và đời nông dân sẽ trắng tay vì không có lúa ăn, để làm mùa.

Tôi nhớ những năm như thế, má và chị Hai tôi cắp thúng ra đồng, lục lọi trong những đám cỏ năn, cỏ lác để mót những bông lúa chắc còn sót lại. Hai người đội nắng suốt một ngày trời cũng chỉ mót được lưng chừng một thúng táo. Má tôi dùng chày giã gạo, giã những hạt thóc ấy ra thành gạo. Đó là những hạt gạo “sứt đầu mẻ trán” và ốm o gầy guộc. Má tôi nấu thứ gạo ấy thành cơm để nuôi anh em chúng tôi. Tôi ăn những hạt cơm ấy cảm được cái vị làn lạt và mằn mặn, chứ không phải thơm ngọt như những hạt cơm bây giờ. Phải chăng những hạt gạo ấy đã nhuốm mồ hôi lam lũ của những bà mẹ, người chị quê ta, phải chăng những hạt gạo ấy được nuôi dưỡng từ nguồn dinh dưỡng suy kiệt của vùng đất phèn mặn quê mình? Lớn lên, tôi cứ xốn xang một cảm thức: những bà mẹ nghèo, ở cái quê nghèo nuôi ta lớn lên, sẽ tốn nhiều mồ hôi nước mắt hơn hẳn những bà mẹ giàu ở những đất nước giàu có.

Tôi thấy người ta làm tượng cá ba sa ở An Giang, tượng con tôm ở Cà Mau và Bạc Liêu sắp dựng tượng ba con tôm… Tôi cứ thổn thức, ĐBSCL, đặc biệt là miệt Hậu Giang còn thiếu một bức tượng trên tất cả các bức tượng ấy. Đó là bức tượng đại biểu cho bao thế hệ tiền nhân tiên phong đi mở cõi, để cho Tổ quốc ta thêm rộng thêm dài. Trong suy nghĩ của tôi có một hình tượng: Một người nông dân, mặc bộ đồ bà ba nâu, trên đầu đội chiếc nón tơi, trên vai chiếc khăn rằn và cây vòng gặt, tóc bới củ tỏi, đứng trên nền là một chiếc xuồng cui, mắt hướng về phương Nam với nỗi buồn tha hương ly xứ mà cũng chứa chan niềm hy vọng. Bức tượng ấy sẽ làm cho quê hương, ĐBSCL đầy nhân nghĩa. Nó chính là khuôn vàng thước ngọc khẳng định đạo lý uống nước nhớ nguồn. Đạo lý về chén cơm của ĐBSCL, một chén cơm ngọt bùi nhân nghĩa.

Phan Trung Nghĩa

Viết bình luận mới
thăm dò ý kiến

Theo bạn, điều gì có thể giữ chân và thu hút người tài vào khu vực công?

THÔNG TIN CẦN BIẾT
Nhiều mây, có mưa, có nơi mưa vừa, mưa to và rải rác có dông. Gió tây nam cấp 3. Trong cơn dông có khả năng xảy ra lốc, sét và gió giật mạnh.